Tài liệu ôn thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp THCS - Nguyễn Đình Vương

Tài liệu ôn thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp THCS - Nguyễn Đình Vương

C. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC: ĐỐI VỚI ĐỀ THI HSG VĂN 9 THƯỜNG RA DƯỚI DẠNG PHÂN TÍCH, LÀM SÁNG TỎ MỘT Ý KIẾN, MỘT NHẬN ĐỊNH.

CẤU TRÚC MỘT BÀI NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH MỘT Ý KIẾN, NHẬN ĐỊNH

Dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học:

Dàn ý chung phần thân bài như sau:

Thao tác Nội dung Mức độ tư duy:

1. Mở bài: Tùy theo yêu cầu của đề để có những hướng tiếp cận mở bài khác nhau.

2. Thân bài:

2.1. Giải thích:

– Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình ảnh khó hiểu trong nhận định.

– Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở đây là gì? (Đọc – Hiểu)

22. Bàn luận:

– Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải vấn đề nghị luận.

– Trả lời cho câu hỏi “vì sao?” (Vận dụng Tổng hợp)

2.3. Chứng minh:

– Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các biểu hiện của vấn đề nghị luận. (Phân tích)

+Luận điểm 1:

+Luận điểm 2:

+Luận điểm 3:

2.4. Đánh giá:

– Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.

– Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có) (Đánh giá)

2.5. Liên hệ:

3. Kết bài.

Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình vận dụng sáng tác và bạn đọc trong quá trình tiếp nhận.

Khi làm bài, cần vận dụng linh hoạt các bước trên nhưng nhất thiết phải có đầy đủ các thao tác này để bài viết không bị mất điểm.

 

doc 47 trang hapham91 19440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn thi học sinh giỏi môn Ngữ văn cấp THCS - Nguyễn Đình Vương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mời qúy thầy cô tham gia vào nhóm: Tài liệu ôn thi hsg ngữ văn 6.7.8.9 để tải bài cho tiện nhé
(Bộ 9: 200 đề hơn 900 trang, Tặng TL ôn 570 Tr, GA 5,phụ đạo, đề đọc hiểu ngoài sgk, bộ nlxh, cách viết mở bài các dạng đề)
CẤU TRÚC MỘT ĐỀ HỌC SINH GIỎI THƯỜNG GẶP
A.DẠNG ĐỀ CÓ PHẦN ĐỌC HIỂU.
1. Các văn bản trong phần đọc hiểu thường lấy ngữ liệu ở đâu?những khía cạnh nào?
Ngữ liệu đọc hiểu là 1 đoạn văn bản có thể thuộc bất cứ loại văn bản nào, từ văn bản khoa học, báo chí, nghị luận, đến văn bản nghệ thuật miễn là văn bản ấy được viết bằng ngôn từ. Các văn bản ấy có thể trong hoặc không nằm trong chương trình đã học hay trong SGK mà hoàn toàn mới lạ. Các văn bản này thường được lấy từ nhiều nguồn, như các tài liệu tham khảo dành cho học sinh, tác phẩm của các tác giả nổi tiếng, các bài báo hay các công trình nghiên cứu có ý nghĩa
 Các em nên chú ‎ý đến các văn bản có liên quan, hoặc đề cập đến các vấn đề sau: bảo vệ văn hóa dân tộc; thói sùng ngoại, bài ngoại, thói tham ô lãng phí; biển đảo và trách nhiệm của thế hệ trẻ với biển đảo của đất nước thực phẩm bẩn đang đầu độc người dân .ý thức con người về biến đổi khí hậu; ngập mặn, hạn hán ,vai trò của nguồn nước trong cuộc sống, lòng tự trọng, lòng nhân ái khoan dung, lí tưởng, lẽ sống, phẩm chất, sự thành đạt của tuổi trẻ, nghị lực sống của con người, cho và nhận .. (qua các vấn đề thường nhật,câu chuyện, tấm gương) 
2.Những kiểu câu hỏi thường sử dụng ở phần Đọc hiểu
- Ở dạng câu hỏi nhận biết: Thường hỏi xác định phương thức biểu đạt, tìm từ ngữ, hình ảnh, xác định cách trình bày văn bản 
- Ở dạng câu hỏi hiểu: Thường hỏi học sinh hiểu như thế nào về một câu nói trong văn bản; hỏi theo học sinh thì vì sao tác giả lại cho rằng, nói rằng (kiểu hỏi này là để xem học sinh và tác giả có đồng quan điểm hay không); Kiểu câu hỏi theo tác giả Ba kiểu hỏi này thường lặp đi lặp lại.
- Ở dạng câu hỏi vận dụng: Thường yêu cầu học sinh rút ra thông điệp có ý nghĩa, điều tâm đắc hoặc chỉ ra những việc làm cụ thể của bản thân.
* Phần đọc hiểu
- Đề bài người ta thường đưa một khổ thơ hoặc một đoạn và yêu cầu học sinh đọc và trả lời các câu hỏi.
- Các câu hỏi thường gặp:
+Xác định thể thơ, kiểu bài
+Nội dung chính của khổ thơ,đoạn trích là gì? (Câu chủ đề của đoạn trích là gì – với đoạn văn)
+Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật được sử dụng chủ yếu trong khổ thơ, đoạn trích? Tác dụng của chúng?
* VÍ DỤ:
2.1. Với thơ
- Câu hỏi 1:
+ Xác định thể thơ bằng cách đếm số chữ trong từng câu thơ. Thông thường trong bài người ra đề sẽ cho vào các thể thơ bốn chữ/ năm chữ/ bảy chữ/ lục bát
+ Các thể thơ trung đại như thất ngôn bát cú (7 chữ/ câu, 8 câu/bài), thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ/ câu, 4 câu/ bài) xác định bằng cách đếm số chữ trong một câu và số câu trong một bài. (Các thể thơ thuộc giai đoạn trung đại trong đề thường ít cho nhưng phải nắm được cách xác định)
+ Xác định phương thức biểu đạt.
- Câu hỏi 2: Đưa nội dung chính của khổ thơ, tức là dụng ý cuối cùng của tác giả.
- Câu hỏi 3: Các biện pháp tu từ từ vựng và các biện pháp nghệ thuật, giá trị biểu đạt của các BPTT trong đoạn thơ.
- Câu hỏi 4:(NLXH). Trình bày suy nghĩ của em về vấn đề được gợi ra từ nội dung đoạn thơ hay ý thơ. 
B.Dạng đề nghị luận về một vấn đề gợi ra từ một bức tranh hoặc hình ảnh
Đây là dạng đề thường xuất hiên trong các đề thi những năm gần đây, nhất là trong các kì thi Olimpic. Đề thi có sự khác biệt, không chỉ là văn bản ngôn từ mà có thêm hình ảnh. Trong cuộc sống, việc đọc hiểu rất đa dạng, đa phương thức như sơ đồ, bảng biểu Xu hướng ra đề thi đa dạng, ra đề bằng hình ảnh không hề xa lạ trong đề khảo sát năng lực đọc hiểu của hs. 
Tùy vào năng lực và trải nghiệm của học sinh mà mỗi người sẽ có cách trình bày quan điểm khác nhau. Cấu trúc bài làm cần linh hoạt sử dụng một trong các dạng trên. Tuy nhiên, cái khó của dạng đề này là thường gợi mở nhiều vấn đề, người viết do đó cần có năng lực khái quát thành một vấn đề chung nhất, bao quát nhất, đồng thời phải có bản lĩnh khi nghị luận về vấn đề.
Người học có thể đọc thông điệp theo nhiều hướng khác nhau mà đáp án không hề khuôn mẫu hay áp đặt hệ thống ý có trước, miễn là luận giải theo hướng tích cực phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Ở đây, không chỉ đánh giá năng lực đọc hiểu mà còn là năng lực làm văn của người học, nên tùy đối tượng học sinh sẽ có cách phân tích vấn đề khác nhau. Vì thế, hoàn toàn phù hợp để kiểm tra dành cho học sinh giỏi.
1.Bày tỏ suy nghĩ của anh chị về bài học cuộc sống rút ra từ bức tranh.
Gợi ý:
Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm một bài văn nghị luận xã hội với nội dung rút ra từ 1 bức tranh; kết cấu chặt chẽ, lập luận thuyết phục, không mắc các loại lỗi.
Yêu cầu về kiến thức: Đây là một đề mở, thí sinh có thể có nhiều cách kiến giải khác nhau nhưng cần có sức thuyết phục, đảm bảo các ý cơ bản sau.
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận:
* Thân bài: Giải quyết vấn đề:
– Trình bày cách hiểu về bức tranh: 
⇒ Ý nghĩa của bức tranh: Phần này thí sinh có thể rút ra nhiều bài học khác nhau nhưng phải có lập luận thuyết phục.
– Bàn luận: 
– Liên hệ bản thân, rút ra bài học: 
* Kết bài: Kết thúc vấn đề: Khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của hành động.
2.3.Cách làm bài văn nghị luận mang tính đối thoại, bộc lộ suy nghĩ riêng về vấn đề đặt ra từ nội dung câu chuyện.
1. Dàn bài gợi ý:
Đây là dạng đề mới nhất thường được lựa chọn trong một vài năm gần đây. Dạng đề này lại thường thiên về bộc lộ suy nghĩ, quan điểm về một vấn đề thiên về hiện tượng đời sống. Cấu trúc làm bài có thể cụ thể hóa như sau:
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề
* Thân bài:
1. Giải thích vấn đề:
2. Trao đổi, bàn luận, đối thoại (phần này phụ thuộc vào nhận thức và sự hiểu biết của bản thân, nhận thức và đánh giá vấn đề đó đúng/sai,phải/trái, đồng tình/không đồng tình )
3.Trình bày quan điểm sống của bản thân (gần với bài học nhận thức và hành động).
Kết bài: Đánh giá chung về vấn đề
C. NGHỊ LUẬN VĂN HỌC: ĐỐI VỚI ĐỀ THI HSG VĂN 9 THƯỜNG RA DƯỚI DẠNG PHÂN TÍCH, LÀM SÁNG TỎ MỘT Ý KIẾN, MỘT NHẬN ĐỊNH.
CẤU TRÚC MỘT BÀI NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH MỘT Ý KIẾN, NHẬN ĐỊNH
Dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học:
Dàn ý chung phần thân bài như sau:
Thao tác Nội dung Mức độ tư duy:
1. Mở bài: Tùy theo yêu cầu của đề để có những hướng tiếp cận mở bài khác nhau.
2. Thân bài:
2.1. Giải thích:
– Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình ảnh khó hiểu trong nhận định.
– Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở đây là gì? (Đọc – Hiểu)
22. Bàn luận:
– Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải vấn đề nghị luận.
– Trả lời cho câu hỏi “vì sao?” (Vận dụng Tổng hợp)
2.3. Chứng minh:
– Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các biểu hiện của vấn đề nghị luận. (Phân tích)
+Luận điểm 1:
+Luận điểm 2:
+Luận điểm 3:
2.4. Đánh giá:
– Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.
– Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có) (Đánh giá)
2.5. Liên hệ:
3. Kết bài.
Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình vận dụng sáng tác và bạn đọc trong quá trình tiếp nhận.
Khi làm bài, cần vận dụng linh hoạt các bước trên nhưng nhất thiết phải có đầy đủ các thao tác này để bài viết không bị mất điểm.
Ví dụ:
Câu 2 (12 điểm)
Bàn về thơ có ý kiến: Bài thơ hay là bữa tiệc ngôn từ. Trong khi đó lại có ý kiến cho rằng: Gốc của thơ là tình cảm.
Hãy bình luận và làm sáng tỏ những nhận định trên qua bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
Yêu cầu về kĩ năng (1đ)
– Biết cách làm bài nghị luận văn học; bố cục và cách trình bày hợp lí.
– Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt; dẫn chứng phù hợp.
– Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.
Yêu cầu về nội dung (11,0đ)
(Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách nhưng cần hướng tới nội dung cơ bản sau):
Mở bài.
Giới thiệu vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến.
Thân bài:
Giải thích (3đ)
– Thơ hay là bữa tiệc ngôn từ: ý nói cái hay của bài thơ trước hết là nhờ cái hay của ngôn từ (sống động, phong phú ), giống như sự hấp dẫn của những ”món ăn” ngon bằng ngôn từ.
– Gốc của thơ là tình cảm: nhấn mạnh tư tưởng tình cảm là then chốt quyết định giá trị của một bài thơ.
=>Hai ý kiến là hai cách định nghĩa về thơ có sự nối tiếp những quan niệm trước đó. Một bên khẳng định sức mạnh của thơ là ở ngôn từ, một bên khẳng định sức mạnh của thơ nằm ở tư tưởng, tình cảm chứ không phải ở ngôn từ.
* Lý giải,Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề (6đ )
– Nói thơ hay là bữa tiệc ngôn từ bởi vì: một bài thơ ngôn ngữ trúc trắc, sáo rỗng, tầm thường thì không thể gọi là thơ hay. Ngược lại, bài thơ hay là khi nó bày ra trước độc giả một “bữa tiệc ngôn từ”, với những ngôn từ được nhà thơ công phu lựa chọn, tổ chức, biến nó từ lời bình thường trở thành nghệ thuật {vừa thể hiện tâm hồn thi nhân; vừa chính xác hàm súc; vừa có dấu ấn riêng của tác giả..}.
– Gốc của thơ là tình cảm bởi vì: thơ là chuyện của tâm hồn, của lòng người cho nên việc thể hiện tất cả mọi vui buồn trong cuộc đời là một nhu cầu bức thiết của thơ. Hơn nữa tình cảm ấy thường tiêu biểu, điển hình, khơi dậy trong trái tim người đọc những rung động sâu xa, những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời.
–=>Mỗi ý kiến đều xác đáng nhưng chưa toàn diện, chưa khái quát được đặc trưng thơ ca vì:
+ Nếu người nghệ sĩ chỉ chú ý rèn câu đúc chữ mà không chú ý đến nội dung tư tưởng của tác phẩm thì sáng tác thơ ca chỉ là những kỹ xảo vờn vẽ, là lối thơ chuộng hình thức. Thơ ca chỉ neo đậu vững chắc trong bạn đọc khi nó có nội dung tư tưởng sâu sắc, hình thức thể hiện độc đáo.
+ Gốc của thơ là tình cảm, sức sống của thơ là tư tưởng, nhưng các nhà thơ từ xưa đến nay nếu không muốn lặp lại người khác và lặp lại chính mình thì quá trình sáng tác đòi hỏi người nghệ sĩ phải tìm đến “bữa tiệc ngôn từ”.
=>Tóm lại một tác phẩm hay,có giá trị phải đầy đủ hai yếu tố:bữa tiệc ngôn từ và gốc của thơ ca là tình cảm.Bài thơ về tiểu đội xe không kính hội tụ cả hai yếu tố đó.
* Phân tích, chứng minh.
Luận điểm1. Bài thơ về tiểu đôi xe không kính là bữa tiệc ngôn từ.
- Nhan đề bài thơ khá dài,thu hút người đọc ở vẻ mới lạ, độc đáo.
+Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “bài thơ” - cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe hỏng, không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ. Vì đã nói đến thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng. Vậy, đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
+Tiếp đến là hình ảnh độc đáo, gây ấn tượng mạnh là những chiếc xe không kính. Từ bài thơ có vẻ như hơi thừa, nhưng thực ra từ đó lại nằm trong chủ định của tác giả và tạo nên sự liên kết giữa hai sự vật có vẻ xa lạ nhau: “bài thơ” và “xe không kính”. Xe không kính thì chẳng có gì làm nên thơ cả, vậy mà nó đã trở thành hình ảnh trung tâm của một bài thơ. Tác giả đã tìm ra chất thơ ở những điều tưởng chừng rất khô khan, trần trụi. Đó chính là chất thơ từ hiện thực gian khổ, ác liệt ở nơi chiến trường.
=>Chính chất liệu chân thực từ cuộc sống ấy đã làm nên sức sống lâu bền của bài thơ. Cách đặt nhan đề tự nhiên thể hiện sâu sắc phong cách thơ Phạm Tiến Duật: tinh nghịch, sôi nổi, tràn đầy niềm tin vào cuộc sống và chiến đấu. Tác giả đã tìm thấy, phát hiện và khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất. Thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh. Đó cũng là bút pháp của nền văn học kháng chiến chiến chống Mĩ cứu nước, vừa tự nhiên, sôi động vừa đậm chất sử thi hào hùng.
- Xây dựng hệ thống ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu sôi nổi, chất liệu thơ chân thực,gần gũi, mang đạm tính khẩu ngữ, tự nhiên gợi cảm.
+Thành công đầu tiên của Phạm Tiến Duật trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là đã xây dựng được một hệ thống ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu sôi nổi, chất liệu thơ chân thực, gần gũi, gợi cảm. Ngôn ngữ của bài thơ gần gũi với lời nói thường, mang tính khẩu ngữ, tự nhiên, sinh động và khỏe khoắn:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
“Không có kính, ừ thì có bụi”
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
+Giọng điệu tự nhiên, trẻ trung, có vẻ tinh nghịch pha một chút ngang tàng, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
=>Ngôn ngữ và giọng điệu ấy rất phù hợp với việc khắc họa hình ảnh những chiến sĩ lái xe trẻ trung hiên ngang, bất chấp nguy hiểm, khó khăn. Đó là những người lính tươi trẻ, yêu cuộc đời, yêu đất nước, tinh thần tràn đầy niềm tin tưởng, quyết chiến đấu, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
+Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Phạm Tiến Duật đã không hề cầu kì hay thi vị hóa đơn điệu hình ảnh những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe. Bởi với ông, cuộc đời ấy đã quá đẹp, rất thơ, rất mạnh mẽ, không cần tô vẽ gì mà vẫn tỏa sáng.
+Tác giả còn kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. và linh hoạt trong nghệ thuật biểu hiện. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.
+Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
=>Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn, hóm hỉnh. Cấu trúc:“không có ”; “ừ thì ”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi” làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Ở họ, những trở ngại của thiên nhiên và điều kiện chiến đấu không thể làm họ sờn lòng. Ngược lại, nó càng làm cho họ thêm hứng thú, quyết tâm vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ“nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai. Lời thơ nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe.
Cuộc sống chiến đấu của người lính tràn đầy niềm vui ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt, hiểm nguy.
=>Qua nghệ thuật biểu hiện, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
Luận điểm2. Gốc của thơ là tình cảm,trong bài thơ về tiểu đội xe không kính còn thể hiện ở sự ngợi ca ngợi những vẻ đẹp tâm hồn người lính.
_ Tư thế ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, tự tin: 
+ Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.
+ Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung dung.... nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
⇒ Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
-Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc quan hồn nhiên, yêu đời của người lính trẻ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời). Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.
 + Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
 + Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, giọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính” – tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên tinh nghịch. Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía : “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong một thoáng chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
- Lòng yêu nước, nhiệt huyết của tuổi trẻ quyết tâm giải phóng miền nam 
Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kĩ thuật, dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Ấy vậy mà những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích đó lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại nguyên vẹn một trái tim dũng cảm. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Nhà văn đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” để làm nổi bật chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp .để rồi một nước nhỏ như Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn.
⇒ Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn chỉ cần có” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được.
 Tác phẩm đích thực là sự kết hợp của hai yếu tố trên {bữa tiệc ngôn từ và tình cảm} mới có thể tạo nên sự xuất thần cho thơ.Nhà thơ không ngừng trải nghiệm lắng nghe rung cảm của đời để tạo được cái gốc tình cảm cho thơ, và không ngừng mài dũa để thực sự trở thành bậc thầy về ngôn từ.Người tiếp nhận phải sáng suốt linh hoạt, không nên cực đoan trong tiếp nhận một quan niệm mà đi đến phủ nhận những quan điểm còn lại.
*Đáng giá tổng hợp.
- Mỗi ý kiến trên đều xác đáng nhưng chưa toàn diện,chưa khái quát hết được đặc trưng thơ ca của một tác phẩm tuy nhiên bài thơ về tiểu đội xe không kính đã đáp ứng được hai yếu tố trên.
- Bài học đối với người cầm bút:nhà thơ là nhà thư kí trung thành của trái tim, thời đại nên không ngừng trải nghiệm, lắng nghe, rung cảm để tạo nên gốc tình cảm của thơ ca, không ngừng học hỏi để trau dồi ngôn từ.
- Bài học đối với người tiếp nhận:hiểu hơn về hoàn cảnh của cuộc kháng chiến, vẻ đẹp của người lính, niềm tự hào 
Kết bài: Khẳng định, đánh giá lại ý kiến
Lí luận văn học và cách làm bài văn dạng đề lí luận văn học
1.Kiến thức lí luận văn học nằm ở đâu trong bài làm nghị luận văn học?
Có thể tạm chia các đề NLVH thường gặp hiện nay thành ba cấp độ:
Yêu cầu đề Đề minh họa:
Cấp độ 1:
Phân tích các yếu tố cơ bản trong một tác phẩm văn học.
Ví dụ:
– Phân tích nhân vật Ông Hai trong tác phẩm “Làng” của nhà văn Kim Lân.
– Cảm nhận về nhân vật 
Cấp độ 2:
Ví dụ:
Phân tích các yếu tố trong tác phẩm văn học để làm rõ một yêu cầu nào đó. 
–Phân tích giá trị nhân đạo 
–Phân tích chất thơ trong truyện ngắn
Cấp độ 3:
Ví dụ:
– Bình luận về ý kiến của nhà thơ Tố Hữu: “Thơ nhận định lí luận văn học. chỉ bật ra trong 
tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”.
– Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự tôn vinh con người bằng cách hình thức nghệ thuật độc đáo. Bày tỏ suy nghĩ về ý kiến trên.
DÀN Ý CHUNG
1.Dàn ý của dạng bài giải quyết một vấn đề lí luận văn học:(làm sáng tỏ một nhận định, ý kiến..)
Dàn ý chung phần thân bài như sau:
Thao tác Nội dung Mức độ tư duy:
1. Mở bài: Tùy theo yêu cầu của đề để có những hướng tiếp cận mở bài khác nhau.
2. Thân bài:
2.1. Giải thích:
– Giải thích các thuật ngữ, các từ ngữ, hình ảnh khó hiểu trong nhận định.
– Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở đây là gì? (Đọc – Hiểu)
22. Bàn luận:
– Sử dụng các kiến thức lí luận văn học để lí giải vấn đề nghị luận.
– Trả lời cho câu hỏi “vì sao?” (Vận dụng Tổng hợp)
2.3. Chứng minh:
– Chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ các biểu hiện của vấn đề nghị luận. (Phân tích)
+Luận điểm 1:
+Luận điểm 2:
+Luận điểm 3:
2.4. Đánh giá:
– Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.
– Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có) (Đánh giá)
2.5. Liên hệ:
3. Kết bài.
Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình vận dụng sáng tác và bạn đọc trong quá trình tiếp nhận.
Khi làm bài, cần vận dụng linh hoạt các bước trên nhưng nhất thiết phải có đầy đủ các thao tác này để bài viết không bị mất điểm.
2. Dàn ý bài văn nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm văn học
Mở bài :
Dẫn dắt vấn đề: giới thiệu đôi nét về tác giả (phong cach, sự đóng góp,một chi tiết trong cuộc đời có liên quan đén việc sáng tác )và đôi nét về tác phẩm (hoàn cảnh ra đời, vị trí của tác phẩm trong toàn bộ sáng tác )
Giới thiệu khái quát đặc điểm của nhân vật .
Chuyển ý .
Thân bài :
Trước khi đi vào phân tích đặc điểm của nhân vật, ta có thể giới thiệu đôi nét hoàn cảnh xuất hiện của nhân vật.
Lần lượt phân tích từng đặc điểm của nhân vật. Ta có thể sắp xếp theo một trình tự sau :
1/ Nêu đặc điểm 1 của nhân vật (luận điểm 1)
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
2/ Nêu đặc điểm 2 của nhân vật (luận điểm 2)
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
3/ Nêu đặc điểm 3 của nhân vật (luận điểm 3)
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Ta cứ tiến hành tuần tự như vậy cho đến hết các đặc điểm của nhân vật 
Đánh giá chung về nhân vật : (hs có thể lồng vào trong quá trình phân tích trên)
Gợi ý đánh giá nhân vật:
Nhân vật ấy tiêu biểu cho lớp người nào trong xã hội ? tốt hay xấu cao thượng hay thấp hèn? 
Bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ xoay quanh những đăc điểm của nhân vật 
Có thể nêu một vài cảm nghĩ của bản thân về tác giả trong việc xây dựng nhân vật
Đánh giá về nghệ thuật :
Gợi ý : hs có thể đánh giá, cảm nhận về nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, cách miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ nhân vật .
Kết bài:
Khẳng định lại đặc điểm của nhân vật 
Ví dụ:Dàn bài gợi ý: Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Phương Định:
Mở bài:
Lê Minh Khuê là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất cảu nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tác phẩm những ngôi sao xa xôi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn, viết năm 1971, lúc cuộc chiến chống Mỹ cứu nước đang ở trong giai đoạn quyết liệt nhất. Nổi bậc trong tác phẩm là nhân vật Phương Định, một nữ thanh niên xung phong xinh đẹp, giàu mơ mộng, với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam anh hùng thời kháng Mỹ cứu nước.
Thân bài:
Luận điểm 1:
Phương Định là một cô gái có ngoại hình xinh đẹp:
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Luận điểm 2:
Phương định có tam hồn nhạy cảm, giàu mơ mộng:
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Luận điểm 3:Phương Định mang trong mình lý tưởng cao đẹp của thế hệ tuổi trẻ Việt Nam quyết chiến đáu hi sinh vì tổ quốc:
Lý lẽ – “dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Lý lẽ – :dẫn chứng”
Đánh giá:
Nội dung:
Qua nhân vật Phương Định và các cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã có cái nhìn thật đẹp, thật lãng mạn về cuộc sống chiến tranh, về con người trong chiến tranh. Chiến tranh là đau thương mất mát song chiến tranh không thể hủy diệt được vẻ đẹp tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ, của con người. Chính từ những nơi gian lao, quyết liệt ta lại thấy ngời sáng vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam.
Nghệ thuật:
–Lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên.
–Nghệ thuật xây dựng nhân vật chân thực, sinh động, nhất là miêu tả tâm lí.
–Ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình.
–Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiến trường.
Kết bài:
Khẳng định: Tác phẩm là bản anh hừng ca ca ngợi cuộc sống, chiến đấu của thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn
Cách tiếp cận và phân tích một

Tài liệu đính kèm:

  • doctai_lieu_on_thi_hoc_sinh_gioi_mon_ngu_van_cap_thcs_nguyen_di.doc