Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử Lớp 9 ở trường THCS
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện biện pháp
Thực tế hiện nay ở các trường Trung học cơ sở công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đã được chú trọng, song vẫn còn những bất cập nhất định như: cách tuyển chọn, phương pháp giảng dạy còn chưa hợp lí, chưa tìm ra được hướng đi cụ thể cho công tác này, phần lớn chỉ làm theo kinh nghiệm. Từ những bất cập trên dẫn đến hiệu quả bồi dưỡng không đạt như mong muốn.
Mặt khác, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Không ít học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài tập, không cần đầu tư phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế.
Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS Khánh Bình Tây Bắc, phần lớn học sinh của trường là con em nông dân, đời sống kinh tế còn khó khăn, học sinh ít được tiếp cận với các vấn đề lịch sử, văn hóa chuyên sâu từ các kênh thông tin, để nâng cao kiến thức và phương pháp giảng dạy của bộ môn để gây hứng thú học tập môn lịch sử cho học sinh, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sao cho đạt hiệu quả, trong những năm gần đây trường luôn có học sinh đạt giải môn lịch sử cấp huyện và cấp tỉnh.
Bằng những những kinh nghiệm của bản thân trong những năm ôn luyện học sinh giỏi tôi lựa chọn. “Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS”. với hy vọng tìm hiểu kỹ trong việc bồi dưỡng sẽ giúp cho việc học của học sinh sẽ đạt hiệu quả như mong muốn.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Khánh Bình Tây Bắc, ngày 21 tháng 5 năm 2021 BÁO CÁO SÁNG KIẾN - Tên sáng kiến: Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS. - Họ và tên: Nguyễn Hoàng Hợp - Đơn vị công tác: Trường THCS Khánh Bình Tây Bắc - Thời gian đã được triển khai thực hiện: Từ ngày 5/9/2020 đến ngày 31/5/2021 I/ ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS. 2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện biện pháp Thực tế hiện nay ở các trường Trung học cơ sở công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đã được chú trọng, song vẫn còn những bất cập nhất định như: cách tuyển chọn, phương pháp giảng dạy còn chưa hợp lí, chưa tìm ra được hướng đi cụ thể cho công tác này, phần lớn chỉ làm theo kinh nghiệm. Từ những bất cập trên dẫn đến hiệu quả bồi dưỡng không đạt như mong muốn. Mặt khác, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Không ít học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài tập, không cần đầu tư phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế. Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS Khánh Bình Tây Bắc, phần lớn học sinh của trường là con em nông dân, đời sống kinh tế còn khó khăn, học sinh ít được tiếp cận với các vấn đề lịch sử, văn hóa chuyên sâu từ các kênh thông tin, để nâng cao kiến thức và phương pháp giảng dạy của bộ môn để gây hứng thú học tập môn lịch sử cho học sinh, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sao cho đạt hiệu quả, trong những năm gần đây trường luôn có học sinh đạt giải môn lịch sử cấp huyện và cấp tỉnh. Bằng những những kinh nghiệm của bản thân trong những năm ôn luyện học sinh giỏi tôi lựa chọn. “Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS”. với hy vọng tìm hiểu kỹ trong việc bồi dưỡng sẽ giúp cho việc học của học sinh sẽ đạt hiệu quả như mong muốn. II/ NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn Dân tộc Việt Nam có lịch sử từ lâu đời, với quá trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nhân dân ta không chỉ có truyền thống dân tộc anh hùng mà còn có kinh nghiệm phong phú, quý báu về việc giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ, về việc rút ra bài học quá khứ cho cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập nước nhà và lao động trong hiện tại. Kiến thức lịch sử sẽ góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, trở thành vũ khí sắc bén trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngày nay, “cùng với quá trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn cũng là một trong những xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta, đó chính là sự tìm tòi, phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm của xã hội Việt Nam, những phẩm chất cao quý, những giá trị truyền thống và những bài học lịch sử giúp chúng ta lựa chọn và tiến hành bước đi thích hợp, hướng tới mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đây chính là cơ sở để những người quan tâm đến sử học và những thầy, cô giáo giảng dạy môn lịch sử cần nhận thức đúng, sâu sắc, ý nghĩa, vị trí đúng của bộ môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở và tìm ra những biện pháp để nâng cao chất lượng bộ môn, thu hút được nhiều học sinh thích học lịch sử và học giỏi môn lịch sử. 2. Các biện pháp tiến hành, thời gian nghiên cứu. 2.1. Biện pháp nghiên cứu Bản thân tìm hiểu các sách giáo khoa và những tư liệu có liên quan phục vụ cho việc giảng dạy môn Lịch sử, soạn kiến thức trọng tậm để bồi dưỡng. Qua các kênh thông tin, qua chương trình dạy học, qua chương trình tập huấn thay sách, chương trình bồi dưỡng thường xuyên, cách ra đề thi học sinh giỏi trong những năm gần đây tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ nét trong cấu tạo đề kiểm tra, đề thi đặc biệt là đề thi học sinh giỏi. 2.2. Thời gian tiến hành Qua 4 năm học (2016 đến năm 2021) bản thân đã đúc kết được những kinh nghiệm ôn luyện học sinh giỏi môn Lịch sử, và rút ra được những kinh nghiệm là cần phải (chọn sát đối tượng học sinh, phương pháp ôn luyện ). 3. Mô tả, phân tích cụ thể các biện pháp: 3.1 Yêu cầu một học sinh giỏi - Là học sinh giỏi Lịch sử không phải chỉ cần tính siêng học bài mà là phải có khả năng lập luận, thông minh, trí nhớ tốt. Đặc biệt là phải có niềm đam mê, yêu thích môn lịch sử. - Ngoài việc học tập ở lớp, học sinh phải tham khảo thêm nhiều sách, vở do giáo viên gợi ý hoặc tự tìm tòi. Học sinh phải có sổ tay để ghi chép những nội dung quan trọng. Đây là tư liệu cần thiết, giúp học sinh dễ dàng tra cứu, không mất nhiều thời gian truy tìm, khi cần thiết. - Học sinh không những nắm được những kiến thức của giáo viên mà còn phải biết độc lập suy nghĩ, tìm tòi, biết khái quát nội dung chương trình hay thắc mắc những gì mình còn nhận thức mơ hồ. - Ngoài ra, học sinh giỏi môn Lịch sử phải biết sử dụng triệt để các thao tác phân tích, tổng hợp để đánh giá, nhận định về một sự kiện hay vấn đề lịch sử, biết chọn ra những chi tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo yêu cầu của đề bài. Hơn nữa, học sinh phải biết trình bày một bài làm Lịch sử có hệ thống. 3.2. Cách chọn học sinh giỏi. - Tiến hành chọn những học sinh có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề nhanh, đúng bản chất sự kiện, vấn đề lịch sử. Trong bài viết, tôi đặc biệt chú ý những bài học sinh trả lời đúng yêu cầu thể hiện nắm vững kiến thức, trình bày, lập luận logic, kết hợp chữ viết rõ ràng, nếu viết đẹp thì càng tốt. - Trong những năm gần đây, việc lựa chọn học sinh giỏi môn Lịch sử vào đội tuyển của trường, qua các bài kiểm tra phát hiện học sinh có năng khiếu, có sự yêu thích học Lịch sử tôi trực tiếp gặp các em để tìm hiểu tâm lý, khơi dậy ở học sinh niềm đam mê, giới thiệu các em tham gia vào đội tuyển để bồi dưỡng. Phân tích cho các em niềm tự hào, vinh dự khi đạt giải môn thi cấp huyện, cấp tỉnh đó là sự ghi nhận, sự cố gắng và kết quả mà các em đã đạt được. - Với cách lựa chọn như trên, trong 4 năm gần đây trường có số lượng học sinh giỏi môn Lịch sử đạt giải cấp huyện và cấp tỉnh khá cao so với giai đoạn trước đó. 3.3. Yêu cầu một bài Lịch sử đạt hiệu quả. - Phải biết suy luận: Bài làm môn Lịch sử cần đi thẳng vào vấn đề, không viết rườm rà, dẫn đến lạc đề. Hãy đọc kỹ đề bài, hiểu rõ câu hỏi và thiết kế những kiến thức đã học theo ý đồ của câu hỏi, đừng bắt câu hỏi phải đi theo kiến thức có sẵn của mình. Học sinh phải biết chọn ra những chi tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo yêu cầu của đề bài. 4. Xây dựng chương trình giảng dạy Đây là công việc quan trọng đầu tiên sau khi thành lập đội tuyển, cần xây dựng chương trình – kế hoạch bồi dưỡng theo tiến trình phát triển của Lịch sử bao gồm 2 phần như sau: a) PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI: Lịch sử thế giới hiện đại (Từ 1945 đến nay) b) PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM: - Lịch sử Việt Nam từ 1858-1918. - Lịch sử Việt Nam từ 1919- 1954: * Giai đoạn Việt Nam từ (1919-1930). * Giai đoạn Việt Nam từ (1930-1945). * Giai đoạn Việt Nam từ (1945-1954). * Soạn hệ thống câu hỏi và bài tập lịch sử (chú trọng bài tập nâng cao) để luyện tập cho mỗi phần dạy. Ngoài ra, tôi tập trung chương trình bảo vệ chủ quyền biển đảo để bổ sung kiến thức cho học sinh khi bồi dưỡng như: chuyên đề về phong trào công nhân; chuyên đề về Nguyễn Ái Quốc, chuyên đề Đảng cộng sản Việt Nam,... 5. Tiến hành bồi dưỡng 5.1. Cung cấp kiến thức Một việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn và giới thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách hiện nay khá phong phú, hay dở đan xen, nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn, nên tôi chọn và mua hoặc phô tô cho học sinh các sách như: Sách giáo khoa (chương trình cũ), Sách lịch sử nâng cao để làm tư liệu tham khảo. Trong chương trình bồi dưỡng, tôi kết hợp dạy kĩ hệ thống kiến thức cơ bản theo chuẩn kiến thức, kỹ năng bằng việc lựa chọn những sự kiện, những vấn đề lịch sử trọng tâm cho các em rồi tiến hành mở rộng kiến thức bằng các chuyên đề nâng cao. Các chuyên đề cần đi sâu làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản chất của các vấn đề lịch sử, các giai đoạn lịch sử; mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Đảm bảo cho học sinh đạt được mức độ về kiến thức lo-gíc là: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo, chứ không phải nhồi nhét kiến thức cho học sinh. Sau khi dạy xong một chủ đề, một bài lịch sử, tôi yêu cầu học sinh phải dành một khoảng thời gian để suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề đó, đặc biệt là ý nghĩa của sự kiện đó với giai đoạn trước và sau nó. Ví dụ: Khi học về phong trào Cần Vương thì hãy đối chiếu nó với phong trào chống Pháp trong những năm 1858 - 1884 hay Phong trào dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX ... Làm như vậy sẽ giúp học sinh nhớ được kiến thức và nếu gặp các dạng bài hệ thống, so sánh ... học sinh làm bài đạt hiệu quả cao hơn. Hoặc khi dạy phần lịch sử Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất: Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng với nội dung như sau: Xã hội Việt Nam sau chiến tranh đã phân hóa tành mấy giấp cấp. Hãy cho biết đặc điểm, thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp trong xã hội Việt Nam sau chiến tranh? Giai cấp Đặc điểm Thái độ chính trị và khả năng cách mạng Địa chủ phong kiến - Số lượng ngày càng đông - Cơ bản đã đầu hàng Pháp - Đại bộ phận cấu kết với Pháp → tay sai cho Pháp - Một bộ phận địa chủ vừa, nhỏ có tinh thần yêu nước Tư sản - Ra đời sau chiến tranh - Phân hóa: 2 bộ phận - Tư sản mại bản: Quyền lợi gắn chặt với Pháp - Tư sản dân tộc: kinh doanh độc lập, bị chèn ép → tinh thần dân tộc dân chủ Tiểu tư sản - Gồm: h/s, sinh viên, viên chức... - Bị chèn ép, bạc đãi, khinh rẻ Có tinh thần hăng hái cách mạng → lực lượng cách mạng Nông dân - Chiếm 90% dân cư - Bị áp bức bóc lột nặng nề - Căm ghét đế quốc, phong kiến - Lực lượng hăng hái và đông đảo nhất Công nhân - Ra đời trước chiến tranh - Bị 3 tầng áp bức bóc lột - Tinh thần yêu nước - Lực lượng tiến bộ -> có khả năng lãnh đạo cách mạng Theo tôi, để một học sinh được tham gia dự thi môn Lịch sử các cấp, học sinh đó phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Lịch sử – Kiến thức cơ bản ở đây không chỉ là những sự kiện đơn lẻ mà phải bao gồm hệ thống những hiểu biết cần thiết về những sự kiện, niên đại, nhân vật, địa danh, các nguyên lý, quy luật, những kết luận khái quát, phương pháp, kỹ năng. Vì vậy, khi nắm vững kiến thức học sinh mới có khả năng ứng phó được với các loại câu hỏi, bài tập. 5.2. Rèn luyện kỹ năng * Kỹ năng tìm hiểu tài liệu Hiểu được đề: Đề ở đây là tên đề bài, tên tiểu mục, Chuyển tiểu mục ấy thành câu hỏi. Ví dụ như “Ba tổ chức Đảng cộng sản nối tiếp nhau ra đời năm 1929”. Tự đặt ra câu hỏi như: “Ba tổ chức cộng sản ấy tên là gì? Tại sao ra đời? Bao giờ? Ở đâu? Có ý nghĩa gì?” Như vậy kích thích hứng thú học tập, hiểu sâu, nhớ lâu, đó là học sinh chủ động trong học tập. Hiểu được khung hay dàn ý: Khung là dàn ý của cả bài hoặc của từng phần. Trước khi học cả bài hay từng phần nên nắm chắc cái dàn ý đó. Dàn ý thường theo giai đoạn hoặc theo sự kiện, bao gồm: nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Nắm khung giúp nhớ có hệ thống và nhớ lâu, dễ trả lời qua những câu hỏi tổng hợp. Chốt được sự kiện: Lịch sử bao giờ cũng gắn liền sự kiện – địa danh – nhân vật lịch sử. Nên “chốt” là thời điểm gắn với một sự kiện quan trọng hoặc tương đối quan trọng. Ở lịch sử lớp 9 yêu cầu học sinh phải nhớ cả ngày, tháng, năm. Nếu chỉ là tương đối quan trọng, có thể chỉ cần nhớ tháng và năm, thậm chí chỉ nhớ năm, cũng tạm được. Nên tìm các mối quan hệ giữa các mấu chốt về thời gian và sự kiện thì dễ nhớ và nhớ lâu. Thuật ngữ: Cần phải nhớ đúng những thuật ngữ Lịch sử, không được nhầm lẫn giữa một số thuật ngữ “đấu tranh”, “chiến đấu”, “khởi nghĩa”,"kháng chiến" vì mỗi chữ có một nghĩa khác nhau. * Kỹ năng phân tích đề Loại đề hệ thống hóa kiến thức lịch sử: nhằm nêu một số kiến thức cơ bản nhất để qua đó phác họa bức tranh chung về một thời kỳ, một sự kiện lịch sử. Song đây không phải là liệt kê kiến thức đơn thuần mà yêu cầu học sinh biết lựa chọn một số sự kiện chủ yếu, tiêu biểu, được hệ thống hóa để làm toát lên một chủ đề nhất định. Loại đề thi tự luận: Các loại đề thi như trên không chỉ yêu cầu học sinh phải nhận biết chính xác sự kiện, nhận thức đúng bản chất lịch sử mà còn đòi hỏi học sinh thể hiện khả năng lập luận, trình bày, diễn đạt tốt. Loại đề nhận thức lịch sử: Là đề theo một chủ đề hay vấn đề lịch sử nhất định được đặt dưới dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này thường có nội dung khó, yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến thức lịch sử chính xác, hệ thống; học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề nêu ra, học sinh phải có trình độ tư duy cao, có khả năng lập luận, lý giải vấn đề. Các dạng thường gặp như: + Đề thi về xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử: Ví dụ: Hãy sắp xếp theo trình tự thời gian các sự kiện chủ yếu từ khi Nguyễn Ái Quốc về nước (1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến khi Cách mạng tháng Tám thành công và giải thích mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử này? + Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện trong quá trình lịch sử cũng như loại đề thi về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, song nó tập trung hơn vào một sự kiện chính; nó nâng cao hơn về mặt khái quát – lý luận. Ví dụ: Trên cơ sở trình bày mục đích của Hội Duy tân và Việt Nam Quang phục hội, anh (chị) hiểu gì về tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu? Loại bài thi thực hành lịch sử: Yêu cầu học sinh không chỉ có biểu tượng lịch sử chính xác, giàu hình ảnh mà còn biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, lao động và công tác xã hội. Vì vậy, nội dung bài thi thực hành lịch sử giúp học sinh rèn luyện kỹ năng bộ môn. Những số liệu, câu hỏi đưa ra trong bài làm cần ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ, dễ hiểu và giải quyết được vấn đề đặt ra. * Kỹ năng làm bài - Phân tích câu hỏi trong đề thi. Phải đọc hết và hiểu chính xác từng từ, từng chữ trong câu hỏi. Trong đề thi, một câu hỏi chặt chẽ sẽ không có từ nào là “thừa”. Đọc kĩ câu hỏi để xác định thời gian, không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi (trình bày, so sánh, giải thích, phân tích, đánh giá...) - Phân bố thời gian cho hợp lí. Học sinh căn cứ vào số điểm của từng câu mà tính thời gian sao cho phù hợp. - Lập dàn ý chi tiết. Hãy coi mỗi câu hỏi như một bài viết ngắn, lập dàn ý, xác định những ý chính và trình tự của các ý. Sau đó hãy “mở bài”, đừng mất nhiều thời gian suy nghĩ về “mở bài”. Khi đã xác định đúng nội dung sẽ biết mở bài thế nào, và nên mở bài trực tiếp, ngắn gọn. - Về hình thức: không phải ai cũng viết được chữ đẹp, câu hay, nhưng hãy cố gắng viết cho rõ ràng, đúng câu, đúng chính tả, đừng dùng từ sáo rỗng, dài dòng, đừng viết tắt. Hãy luôn nhớ: Đúng, đủ, rõ ràng, lời văn giản dị, trình bày khoa học. Tuyệt đối không được viết tùy tiện, rườm rà. Khuyến khích học sinh có thể dẫn chứng thơ, văn học, những nhận định, đánh giá, để minh họa trong quá trình làm bài thi. III/ ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH MỚI, TÍNH HIỆU QUẢ VÀ KHẢ THI, PHẠM VI ÁP DỤNG 1/ Tính mới Qua thực tiễn bồi dưỡng trong 4 qua, bản thân tôi đã vận dụng sáng kiến " Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS", ở trường THCS Khánh Bình Tây Bắc, bản thân nhận thấy học sinh giỏi đã từng bước được nâng cao, học sinh biết cách trình bày theo từng chủ đề, có phân tích, đánh giá, so sánh, nhận định để giải quyết vấn đề, bản thân học sinh đã phát huy được tích cực, biết chủ động trong việc lĩnh hội các kiến thức Lịch Sử, các sự kiện, móc thời gian Lịch Sử từ đó học sinh hứng thú và yêu thích môn lịch sử hơn, kết quả làm thi bài cũng đạt hiệu quả cao hơn. 2/ Tính hiệu quả và khả thi Từ khi vận dụng biện pháp trên trong việc bồi dưỡng cho thấy biện pháp trên đã phần nào nắm vững kiến thức và kĩ năng làm bài của học sinh, các em đã ý thức được tầm quan trọng của môn sử, biết cách diễn đạt khái quá được các sự kiện, cách trình bày cũng mang tính khoa học hơn, số lượng học sinh giỏi tham gia cũng nhiều hơn. có kĩ năng làm bài khá tốt. Học sinh nắm vững hơn nữa về kiến thức từ đó có thể cải thiện chất lượng ôn luyện của giáo viên, kết quả học sinh đạt giải qua các kì thi cũng cao hơn. Kết quả cho thấy với những biện pháp như đã trình bày ở trên, trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, trong 4 năm qua, cho thấy học sinh được rèn luyện các kỹ năng làm bài, biết phần tích về các sự kiện lịch sử và phát huy được tính tích cực, chủ động tạo sự hứng thú của học sinh. Nhờ đó mà kết quả đạt học sinh giỏi các cấp ngày càng có sự chuyển biết rõ rệt. Sáng kiến được áp dụng trong 4 năm qua : Năm học Số lượng HS giỏi cấp huyện Tỉ lệ % HS giỏi cấp tỉnh Tỉ lệ % 2016 - 2017 2 1 50 2017 - 2018 2 1 50 2018 - 2019 2 1 50 1 100 2020 - 2021 2 2 100 3/ Phạm vị áp dụng Qua thực tế vận dụng " Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS", ở trường THCS Khánh Bình Tây Bắc, tôi nhận thấy những giải pháp trên đã mang lại nhiều kết quả khả quan trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, việc rèn luyện ý thức học tập của học sinh cũng như việc truyền đạt kiến thức của giáo viên. Đồng thời gây hứng thú cao độ trong quá trình tiếp nhận kiến thức của các em cũng như giúp các em đi sát thực tế hơn và đặc biệt là ghi nhớ các sự kiện, mốc thời gian của lịch sử. Bản thân cũng đã chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ và được các đồng nghiệp đánh giá cao. IV/ KẾT LUẬN Để bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử đạt hiệu quả trước hết phải có những giáo viên vững vàng về kiến thức, kỹ năng thực hành lịch sử. Phải thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Niềm đam mê là yếu tố rất cần thiết khi bạn muốn dạy tốt và có học sinh học tốt môn Lịch sử. Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, đọc sách báo để ngày càng làm phong phú thêm vốn kiến thức của mình. Cần phải có phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu các chủ đề, soạn bài, ghi chép giáo án một cách khoa học. Tham khảo nhiều sách báo tài liệu có liên quan, giao lưu học hỏi các bạn đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm, các trường có bề dày thành tích. Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc làm, thái độ, cử chỉ có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo. Giáo viên phải khơi dậy niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với môn học Lịch sử, luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử hiện nay. Trên đây chỉ là một số kinh ngiệm của bản thân, rất mong sự đóng góp ý kiến chân thành của các đồng nghiệp để việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử ngày càng hiệu quả hơn. KBTBắc, ngày 21 tháng 5 năm 2021 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Người báo cáo ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP Nguyễn Hoàng Hợp
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_gop_phan_nang_cao_cha.doc