Tài liệu luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn

Tài liệu luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn

Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên.Chúng tôi phục kích từng chăng đánh, truy kích binh đoàn Beaufré.Khi đó tôi là chính trị viên đại đội.Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khố.Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phái có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại

điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khiốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí.

Bài thơ Đồng chí được làm sau bài thơ Ngày về.Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình.Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội.Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có một chỗ dựa dườngnhưlàduy nhấtđếtồntại, để chiếnđấulàtìnhđồngchí,tìnhđồngđội.Đồngchíở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi.Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình.Bài thơ viết có đối tượng.Tôi hiểu và quý mếnngườiđồngđộicủatôinêntiếngnóithơcagiảndịvàchânthật.TuynhiênĐồngchí không phải là bài thơ nôm na. Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ.Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.Tôi là lính của Trung đoàn Thù đô.Tôi vào bộ đội ngày 19 - 12 -1946. Bước vào cuộc kháng chiến, tuổi trẻnhiều lúc bốc men say. Bài Ngày về phán ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài Đồng chí cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi.Bài thơ được làm nhanh.Tôi làm để tặng bạn.Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh "nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá.Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi.Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật. bạn và tôi đều cùng trải qua.Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội.Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên vềkhaithácđờisốngnộitâm,tìnhcảm,ítcónhữngchuyệnđùngđoàng, chiếnđấu.

 

docx 81 trang Hoàng Giang 30/05/2022 10816
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu luyện thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI LIỆU ÔN VĂN 9, LUYỆN THI VÀO 10 CUỐN CHIẾU THEO TỪNG TÁC PHẨM
Mời quý thầy cô tham gia nhóm: Tài liệu ôn HSG ngữ văn 6.7.8.9. để tải tài liệu cho tiện a
Lấy trọn bộ vui lòng liên hệ qua zalo hoăc mesenger 0988 126 458
PHẦN 1: ÔN KIẾN THỨC
CHUYÊN ĐỀ THƠ HIỆN ĐẠI
ÔN TẬP VĂN BẢN: ĐỒNG CHÍ( Chính Hữu)
Nhà thơ Chính Hữu tâm sự về bài thơ “Đồng chí”
MỘT VÀI KỈ NIỆM NHỎ VỀ BÀI THƠ "ĐỔNG CHÍ"
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên.Chúng tôi phục kích từng chăng đánh, truy kích binh đoàn Beaufré.Khi đó tôi là chính trị viên đại đội.Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khố.Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phái có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại
điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khiốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí.
Bài thơ Đồng chí được làm sau bài thơ Ngày về.Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình.Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội.Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có một chỗ dựa dườngnhưlàduy nhấtđếtồntại, để chiếnđấulàtìnhđồngchí,tìnhđồngđội.Đồngchíở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi.Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình.Bài thơ viết có đối tượng.Tôi hiểu và quý mếnngườiđồngđộicủatôinêntiếngnóithơcagiảndịvàchânthật.TuynhiênĐồngchí không phải là bài thơ nôm na. Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ.Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.Tôi là lính của Trung đoàn Thù đô.Tôi vào bộ đội ngày 19 - 12 -1946. Bước vào cuộc kháng chiến, tuổi trẻnhiều lúc bốc men say. Bài Ngày về phán ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài Đồng chí cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi.Bài thơ được làm nhanh.Tôi làm để tặng bạn.Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh "nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá.Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi.Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật... bạn và tôi đều cùng trải qua.Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội.Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên vềkhaithácđờisốngnộitâm,tìnhcảm,ítcónhữngchuyệnđùngđoàng, chiếnđấu.
Tôi làm bài Đồng chí cũng là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca quen thuộc của tôi.Bài thơ có những hình ảnh cô đúc như đầu súng trăng treo. Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ có thể gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn.Vấn đề đối vối tôi đơn giản hơn. Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng.Đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh "đầu súng trăng treo". Lúc đầu tôi viết là "đầu súng mảnh trăng treo" sau đó bớt đi một chữ. "Đầu súng trăng treo", ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối.Sương muối làm buốt tê da như những mũi kimchâm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác. Tất cả những gian khố của đời lính trong giai đoạn này thật khó kế hết nhưngchúng tôi vẫn vượt lên được nhờ ở sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội trong quần ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động, bồi hồi.(Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội,1994)
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả
- Chính Hữu ( 1926 – 2007), tên khai sinh là Trình Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
- Chính Hữu làm thơ từ năm 1947, thành công chủ yếu về đề tài người lính và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương Thơ Chính Hữu giản dị và chân thực, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
- Tác phẩm chính : Đầu súng trăng treo ( 1966), Thơ Chính Hữu ( 1977), Tuyền tập Chính Hữu 1988).
- Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Văn bản
a) Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Như vậy, bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu sa , mạnh mẽ của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc.
- Bài thơ được in trong tập Đầu súng trăng treo ( 1966)
b, Phương thức biểu đat: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm. (biểu cảm là chủ yếu).
c, Bố cục của văn bản.
+ Phần 1: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội
+ Phần 2: 10 câu tiếp: Những biểu niện của tình đồng chí đồng đội
+ Phần 3: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội
d, Thể thơ: Tự do
e) Nghệ thuật
- Bài thơ viết theo thể thơ tự do.
- Ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết chân thực.
- Hình ảnh gợi cảm và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng.
- Hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
g) Nội dung : 
-Bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính Cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Niềm tự hào về thế hệ cha anh, khơi gợi tinh thần yêu nước sâu ắc bao thế hệ.
3, Ý nghĩa nhan đề văn bản
- Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng. 
- Đồng chí gợi cảm nghĩ về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một loại tình cảm mới, tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm tháng cách mạng kháng chiến
- Đồng chí còn là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể cách mạng, của những người lính, ngời công nhân, người cán bộ từ sau cách mạng. 
-> Vì vậy, đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
III.Tìm hiểu văn bản
Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháptrong bài thơ “Đồng chí” của ChínhHữu.
Dàn ý đại cương
Dàn ý chi tiết
1.Mở bài:
- Giới thiệu vài nét
-Chính Hữu là nhà thơ quân đội hoạt động trong hai cuộc kháng
về nhà thơ Chính
chiến chống Pháp. Thơ ông hầu như chỉ viết về người lính và chiến
Hữu
tranh.
Giới thiệu về bài thơ “Đồng chí”
Giới thiệu vấnđề
nghị luận
-Bài thơ “Đ ồng chí” được ông viết năm 1948,in trong tập “Đầu súng trăng treo”.
-Đến với bài thơ, người đọc cảm phục và yêu quí người lính cách
mạng thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp
2.Thân bài:
a. Người lính giản dị, mộc mạc 
- Họ là những người nông dân
b. Họ cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu.
c. Ý chí nghị lực phi thường, vượt lên gian khó.
-Đọc bài thơ, cảm nhận đầu tiên của chúng ta là hình ảnh người lính hiện lên rất chân thực như cuộc sống còn nhiều vất vả và lo
toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê đất Việt:
Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân quê. Tác giả tuy không chỉ đích danh, bản quán nơi cư ngụ từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miền Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn sỏi đá. Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ, khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những người xa lạ, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là câu thơ giàu ý nghĩa. Điệp từ “bên” cùng nghệ thuật sóng đôi có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc “súng bên sung”, cùng chung lí tưởng, suy nghĩ “đầu sát bên đầu”. Dù gian khổ đến đâu, dù nguy hiểm, sóng gió đến nhường nào, các anh vẫn trung thành với con đường của mình đã chọn. Đọc câu thơ, ta không nhận ra “anh” và “tôi” nữa màhọ
đã trở thành “những anh”, “những tôi” nhòa đi sau những khẩu
súng,những máiđầu.
->Thì ra cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành cuộc “gặp gỡ” của bao người yêu nước. Mới đây thôi, họ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Giờ đây họ lại sát cánh bênnhau thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chính lí tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ với nhau trong hàng ngũ quân đội cáchmạng.
-Ở nơi chiến trường đầy khói bom thuốc súng, người chiến sĩ phải chống chọi với cái rét:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Cái rét ở rừng già Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống
Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy:
d. Tình đồng chí,
đồng đội 
e. Tình yêu quê hương, đất nước của người lính
- Thái độ ra đi cứu nước dứt khoát, kiên quyết
- Nỗi nhớ quê hương
h. Càng gian khó, họ càng yêu thương nhau.
Ý nghĩa của cái nắm bàn tay
Tâm hồn lãng mạn, baybổng.
k. Vẻ đẹp hiện thực và lãng mạn.
- Gian khó là nơi thử thách tình đồng chí
Ý nghĩa biểu tượng của hìnhảnh “Đầu súng trăng treo”.
Nhận xét đánh gi
3.Kết bài: 
+ Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng đèo Khế gió sang.
+ Đêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương.
( Tố Hữu – “Lên Tây Bắc”)
-Nhưng câu thơ của Chính Hữu nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Cái hay của nhà thơ là đã biết đem “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi ấm mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng, bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ý hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của nhau:
Đồng chí!
-Câu thơ chỉ có hai tiếng và kết thúc bằng dấu chấm than tạo một nốt nhấn, vang lên như một sự phát hiện, lời khẳng định. Đồng thời như một chiếc bản lề khép mở sự lí giải cội nguồn của tình đồng chí ở sáu câu thơ trước với những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí trong những câu thơ tiếp theo của bài thơ.
=> Nếu coi bài thơ như một cơ thể sống thì hai tiếng “Đồng chí” như một trái tim hồng nuôi sống cả bài thơ. Nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc.
=> Tám mươi năm nô lệ nay mới được gọi nhau là đồng chí sung sướng và kiêu hãnh biết bao! Từ nay tình cảm gì cũng phải nâng lên thành tình đồng chí, phải đo bằng tình đồng chí. Tình cảm cao đẹp này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất, dồi dào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
=> Chính Hữu đã có lời nhận xét: “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lí tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng chí bấy giờ”.
-Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
-Từ bao đời nay, ai cũng biết rằng ruộng nương và nhà cửa là những tài sản quý giá nhất đối với người nông dân vì họ phải tốn
biết bao mồ hôi nước mắt mới có được. Cho nên họ vô cùng gắn bó sâu nặng, gìn giữ, trân trọng với những thứ của cải ấy.Vậy mà họ lạidễdàng gạtbỏlạisaulưng,lênđườngtheotiếnggọicủaquê
hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người
dân quê vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình họ, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng hi sinh cho dân tộc. Ai ngờ những người nông dân quê mùa, hiền lành như hạt lúa, củ khoai, cả đời chỉ biết cầm cày gieo lên mầm xanh, nhân lên sự sống cho quê hương đất nước lại dễ dàng từ bỏ xóm làng đến thế! Các anh đã biết đặt tình cảm chung lên tình cảm cá nhân, đặt tình yêu nước lêntrên tình cảm gia đình. Hai tiếng “mặc kệ” không phải hiểu theo nghĩa phó mặc mà trong ngôn ngữ giản dị của người lính là “Cứ chờ đó, cách mạng thành công mọi chuyện sẽ làm lại sau”. Đó mới chính là ngôn ngữ, là ý tưởng mà họ muốn thể hiện trong hành động “dứt áo” ra đi củamình.
-Vì thế quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
-Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “Giếng nước gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Song hai hình ảnh này còn được nhân hóa. Nói “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. “Giếng nước gốc đá” cồn cào đến chừng nào! Đời sống tình cảm của họ với làng quê da diết vô cùng. Bao tình cảm sâu nặng như đều dồn tụ trong tiếng “nhớ” giản dị ấy!
=>Song, góc nhớ thương đó không làm cho các anh mềm lòng, mất đi ý chí cứu nước mà nó thôi thúc, động viên người lính nông dân bền gan vững chí, cầm chắc tay súng lập công. Bởi lẽ nước nhà sớm độc lập thì các anh mới sớm được trở về với quê hương, xóm làng 
-Đọc bài thơ, chúng ta còn cảm phục người lính nông dân ở tinh thần vượt khó, vượt khổ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
-Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, chướng khí âm u nên hầu như người lính nàocũng bị mắc căn bệnh sốt rét ác tính. Căn bệnh quái ác này làm cho họ tóc rụng da xanh, gầy còm yếu ớt, thậm chí tử vong nữa. Ai đã từng nói: “Đánh trận tử vọng ít, sót rét tử vongnhiều”.
-Nhưng đó không phải là gian khổ duy nhất mà người lính phải trải
qua. Họ còn phải chịu đựng cái lạnh giá, trong khi quân phục lại
không đủ đầy: người lính thường xuyên phải mặc “áo rách”, “quần vá” và “chân không giày”. Vậy mà họ vẫn không một lời kêu ca, không một tiếng phàn nàn, một lời than thở 
=> Từ một dân tộc nô lệ với gậy tầm vong giáo mác, chúng ta vùng lên chọi lại xe tăng đại bác của kẻ thù. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn này, anh bộ đội là người trực tiếp chịu đựng biết bao gian khổ. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, đọc lại những vần thơ của Chính Hữu mấy ai mà không cầm được nước mắt, mấy ai không thán phục sức chịu đựng phi thường của các anh.
-Viết về hiện thực cuộc sống của người lính nông dân, Chính Hữu khôngphảiđịnhkểkhổđểlàmbàithơtrởnênbithảm,lòngngười bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “Thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự cảm thông, xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa.
+ Đó là cái nắm tay thân mật, thắm thiết, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa tình cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần lời nói hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, hơi ấm từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai người, làm hai người nở một nụ cười, dù là “buốt giá”.
+ Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút làm ăn” ( Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu N hưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng cao đẹp đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, đểhọ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệTổ
quốc.
Ba câu kết khắc họa thật đẹp bức chân dung của người lính trong một đêm canh gác ở rừng:
Đêm nay rừng hoang sươngmuối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăngtreo.
-Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt ( “rừng hoang”, “sương muối”) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng đẹp biết bao! Họ truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn Tổ quốc. Có thể nói chính hoàn cảnh khắcnghiệt
của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng
đội thiêng liêng cao cả của những người lính.
-Hình ảnh người lính tỏa sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Trăng như treo trên đầu súng gợi ra vẻ đẹp hư ảo, gần mà xa, thực mà mộng, một không gian bát ngát bao la có cái gì cứ bông bênh khó tả. Họ đã vượt lên gian khổ, vượt lên thiếu thốn, hiểm nguy để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng, của thiên nhiên đất trời ban tặng. Ánh trăng lúc này như người bạn tri âm tri kỉ đối với người lính. Vầng trăng trên bầu trời như xuống thấp, soi sáng đôi bạn, muốn ngợi ca, soi rõ tình đồng đội thiêng liêng cao cả của họ. Chỉ một nét vẽ khéo léo, một sự tưởng tượng hết sức diệu kì, Chính Hữu đã xóa đi bao ám ảnh của rừng hoa sương muối, của cái chết, của trận đánh sắp bắt đầu, nâng hình ảnh người lính cao hơn, sáng hơn, và ngàn lần đẹp hơn.
=> Hóa ra cuộc đời người lính nông dân mộc mạc, chân chất kia, tâm hồn cũng rất lãng mạn bay bổng biết bao! Họ không chỉ biết siết cò súng mà còn biết làm thơ nữa! Tâm hồn chiến sĩ hòa quyện với tâm hồn thi si đã tạo nên nét đẹp độc đáo của người lính nông dân.
-Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” là biểu tưởng cho sắt thép, lửa đạn chiến tranh, khiến cho nhân loại căm giận lên án. Còn “trăng” biểu tượng cho hòa bình, hạnh phúc – ước mơ ngàn đời con người muốn vươn tới.
=> Chính Hữu đã liên kết hai hình ảnh đối lập trong một câu thơ để diễn tả một ý tưởng sâu sắc: người chiến sĩ của chúng ta quyết tâm cầm chắc cây súng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. Để cho em thơ ngủ ngon, để cho nhân dân hạnh phúc, yên bình, để vầng trăng kia sáng mãi, các anh chỉ có cách duy nhất: cầm súng. Với cây súng các anh đã trở thành linh hồn của đất nước, của không gian và thời gian. Với cây súng các anh đã thêu dệt nên những bản tình ca không thể nào quên trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc.
=>“Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất viết về người chiến sĩ trong thời kì chống Pháp: gian khổmà anh
dũng, hiện thực mà thơmộng. Chủ đề của bài thơ được nâng cao và lắng sâutrong lòng người đọc cũng là nhờ hình ảnh thơ tuyệt đẹp
này. Và Chính Hữu cũng đã lấy hình ảnh thơ này làm tựa đề cho tập thơ gồm hai mươi tư bài của mình.
Thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, bút pháp hiện thực, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh.
-Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm tình cảm của người lính. Vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hòa quyện vào tình giai cấp.
-Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính
lên đến đỉnh cao khái quát, trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
III.ĐỌC HIỂU
BÀI TẬP 1: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Câu 1: Em hãy nêu tóm tắt nội dung của đoạn trích trên?
Trả lời:
Đoạn trích trên thể nói tới cơ sở hình thành tình đồng chí:
 + Chung cảnh ngộ, hoàn cảnh xuất thân nghèo khó.
 + Cùng chung hoàn cảnh, lý tưởng chiến đấu.
 + Hình thành trên sự sẻ chia, đồng cảm mọi gian lao, mọi niềm vui nỗi buồn.
Câu 2: Em hãy nêu một thành ngữ có trong đoạn thơ trên. Giải thích nghĩa của thành ngữ đó.
Trả lời:
Thành ngữ được sử dụng trong đoạn thơ trên:
“Nước mặn đồng chua”: vùng đất nghèo ven biển nhiễm phèn, nhiễm mặn khó làm ăn.
“Đất cày lên sỏi đá”: nơi đồi núi, trung du, đất đá bị ong hóa, khó canh tác.
→ Hai thành ngữ này để nhằm chỉ ra sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó là cơ sở hình thành tình đồng chí.
Câu 3: Nêu cấu trúc câu thơ sóng đôi được sử dụng trong đoạn thơ trên và nêu tác dụng của cấu trúc đó trong việc thể hiện nội dung đoạn thơ.
Trả lời:
Hai câu thơ đối ứng nhau về ý:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sự đối ứng “quê hương anh - làng tôi”; “nước mặn đồng chua” – đất cày lên sỏi đá”khắc họa được sự nghèo khó về xuất thân, cảnh ngộ, đó là cơ sở hình thành tình đồng chí, tạo nên sự nhịp nhàng đồng điệu giữa những người lính.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Câu thơ đối xứng nhau ngay trong từng vế câu, làm nổi bật hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt nhưng những người lính vẫn sát cánh bên nhau, cùng nhau chiến đấu, cùng nhau đối diện với hiểm nguy.
Câu 4: Có bạn viết: “Chỉ với 7 câu văn đã cho người đọc thấy được sự tương đồng và gắn bó của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ”.
Câu văn trên bạn viết sai ở đâu, hãy sửa lại cho đúng và chuyển câu trên thành câu bị động.
Trả lời:
Sửa câu: “Chỉ với bảy câu thơ người đọc thấy được sự tương đồng và gắn bó của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp”.
Câu 5: Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, nêu tác dụng của biện pháp đó.
Trả lời:
Biện pháp điệp từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” nhằm tạo nên sự đối ứng trong một câu thơ:
 + Gợi lên sự khắc nghiệt, nguy hiểm của chiến tranh (hình ảnh súng sẵn sàng chiến đấu).
 + Thể hiện sự chung sức, cùng nhau đoàn kết, chiến đấu.
Câu 6: Từ “tri kỉ” trong bài có ý nghĩa gì? Em hãy chép chính xác một câu thơ trong bài em đã học cũng sử dụng từ tri kỉ, ghi rõ tên tác giả tác phẩm.So sánh hai từ tri kỉ đó.
Trả lời:
Từ “tri kỉ” có nghĩa: thấu hiểu mình, hiểu bạn như hiểu bản thân mình.
Câu thơ trong bài Ánh trăng của Nguyễn Duy có chứa từ tri kỉ:
“Vầng trăng thành tri kỉ”
Từ tri kỉ trong bài đồng chí diễn tả sự thấu hiểu giữa 2 người lính cùng chiến tuyến, cùng lý tưởng chiến đấu, cùng hoàn cảnh chiến đấu.
Từ tri kỉ trong bài Ánh trăng diễn tả sự đồng điệu thấu hiểu của trăng với con người, của con người với chính quá khứ của mình.
Tri kỉ trong bài "Đồng chí" tuy hai nhưng một.
BÀI TẬP 2.
Cho câu thơ: “Quê hương anh nước mặn đồng chua”
a) Chép tiếp 5 câu thơ tiếp theo. Cho biết đoạn thơ nằm trong bài thơ nào? Của ai? Hoàn cảnh sáng tác.
b) Câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Tác dụng?
c) Đoạn thơ gợi cho em nhớ tới bài thơ nào cũng viết về tình đồng chí, đồng đội của người lính trong chương trình Ngữ văn 9. Chép lại câu thơ thể hiện cử chỉ thân thiện và tình cảm của những người lính cách mạng. Cho biết tên tác giả, tác phẩm.
d) Viết đoạn văn khoảng 12 dòng theo cách diễn dịch. Phân tích đoạn thơ trên để thấy được cơ sở bền chặt hình thành tình đồng chí .
Gợi ý :
a, Tự trả lời
b) Câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, hoán dụ.
Cách nói hàm súc, giàu hình tượng, vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng.
Nghệ thuật hoán dụ “súng”, “đầu”: “súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu. “Đầu” biểu tượng cho lí tưởng.
Tả thực tư thế chiến đấu của người linh khi có giặc, tượng trưng chung hành động và lí tưởng của người lính.
Tác dụng: Chính Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, hoán dụ trong câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” cho ta thấy sự đoàn kết, gắn bó keo sơn của tình đồng đội, sự gắn kế trọn vẹn cả về lí trí, lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
c) Câu thơ thể hiện cử chỉ thân thiện và tình cảm của người lính cách mạng:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Thuộc tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến Duật.
d) 
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn có độ dài khoảng 12 dòng theo lối diễn dịch, qui nạp, hay tổng phân hợp, có một câu ghép
Yêu cầu về nội dung: Cần làm nổi bật nội dụng sau:
- Sự gắn bó của những con người từ những vùng quê nghèo khổ khác nhau: xa lạ- tri kỉ
- Họ cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu
- Chú ý vào các từ ngữ hình ảnh giàu sức gợi: chung chăn, tri kỉ, súng bên súng, đầu sát bên đầu.
 Đoạn văn tham khảo:
Đoạn thơ trên trích trong văn bản “Đồng chí” – Chính Hữu sáng tác năm 1946 đã rất thành công trong việc thể hiện được cơ sở bền chặt hình thành tình đồng chí. Mở đầu là hai câu thơ:“Quê hương anh nước mặn đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Nghệ thuật đối xứng “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” giúp ta hình dung ra những người lính đều là con em của những người nông dân từ các miền quê nghèo khó, hội tụ về đây trong đội ngũ chiến đấu. “Anh với tôi đôi người xa lạ, Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Từ “đôi” chỉ hai người, hai đối tượng chẳng thể tách rời nhau, thể hiện sự đoàn kết, gắn bó keo sơn kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn. Từ phương trời tuy chẳng hẹn quen nhau nhưng họ là những người cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ, trong trái tim của họ nảy nở lên những ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí – tình cảm ấy không chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lí trí lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho Tổ quốc. “Súng bên súng đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chính Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp từ qua từ “súng”, “đầu”, “bên” và nghệ thuật hoán dụ “súng, đầu” đã thể hiện điều đó.Từ “chung” ở đây bao hàm nhiều nghĩa: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng, “Tri kỉ” cho thấy họ là những đôi bạn thân thiết, luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời. Tóm lại, những người lính tuy xuất thân từ những vùng quê nghèo khó nhưng 
họvẫn chung mục đích, chung một lí tưởng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
BÀI TẬP 3:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua 
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi hai người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí !
(Theo Chính Hữu, Đồng chí, trong Ngữ văn 9, tập một,
NXB Giáo dục, 2005, trang 128)
Trong những câu thơ trên có một từ bị chép sai. Đó là từ nào ? Hãy chép lại chính xác câu thơ đó. Việc chép sai từ như vậy ảnh hưởng đến giá trị biểu cảm của câu thơ như thế nào ?
Câu. thứ sáu trong đoạn thơ trên có từ tri kỉ. Một bài thơ đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 9 cũng có câu thơ dùng từ tri kỉ. Đó là câu thơ nào ? Thuộc bài thơ nào ?
Về ý nghĩa và cách dùng từ tri kỉ trong hai câu thơ đó có điểm gì giống nhau, khác nhau ?
3. Xét về cấu tạo và mục đích nói, câu thơ "Đồng chí!" lần lượt thuộc các kiểu câu gì? câu thơ này có gì đặc biệt? Nêu ngắn gọn tác dụng của việc sử dụng kiểu câu đó trong văn cảnh?
4. Câu thứ bảy trong đoạn thơ trên là một câu đặc biệt. Hãy viết đoạn văn khoảng 10 câu phân tích nét đặc sắc của câu thơ đó.
Gợi ý :
Trong đoạn thơ có từ bị chép sai là hai, phải chép lại là đôi :Anh với tôi đôi người xa lạ.
Chép sai như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá trị biểu cảm của câu thơ :Hai là từ chỉ số lượng còn đôi là danh từ chỉ đơn vị. Từ hai chỉ sư riêng biệt, từ đôi chỉ sự không tách rời. Như vậy, phải chăng trong xa lạ dã có cơ sở của sự thân quen ? Điều đó tạo nền móng cho chuyển biến tình cảm của họ.
Câu thơ trong bài Ánh trăng của Nguyễn Du có từ tri kỉ :
hồi chiến tranh ở rừng 
vầng trăng thành tri kỉ
Từ tri kỉ trong hai câu thơ cùng có nghĩa chỉ đôi bạn thân thiết, hiểu nhau.
Nhưng trong mỗi trường hợp cụ thể, nét nghĩa có khác : ở câu thơ của Chính Hữu, tri kỉ chỉ tình bạn giữa người với người. Còn ở câu thơ của Nguyễn Duy, tri kỉ lại chỉ tình bạn giữa trăng với người.
3. Tác dụng:
– Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu, là bản lề khép mở ý thơ 
Về nội dung: Giúp thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà thơ: biểu hiện sự cô đặc, dồn thụ sức nặng tư tưởng, cảm xúc của tác giả )
4. Viết đoạn văn :
Về nội dung, cần chỉ ra được :
Câu thơ chỉ có hai tiếng và dẩu chấm than, là nốt nhấn, là lời khẳng định.
Gắn kết hai đoạn của bài thơ, tổng kết phần trên và mở ra hướng cảm xúc cho phần sau : cội nguồn của tình đồng chí và những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí.
Về hình thức : không quy định cụ thể, nên có thể tự lựa chọn cấu trúc đoạn cho phù hợp.
Đoạn văn tham khảo:
Bài thơ ” Đồng chí” của Chính Hữu ca ngợi tình cảm cao đẹp của những người lính anh bộ

Tài liệu đính kèm:

  • docxtai_lieu_luyen_thi_vao_lop_10_mon_ngu_van.docx