Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tiết 118: Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tiết 118: Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)

I. Tìm hiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).

1. Ví dụ: VB (SGK- Trang 61-62)

Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, lòng ta cứ xao xuyến, vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân tình, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Viết về một mảng hiện thực trên miền đất Sa Pa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, thiên truyện như muốn nói với ta rằng: Bên trong vẻ lặng lẽ của núi rừng, cuộc sống ở đây chứa bao vẻ đẹp đáng yêu, đang có không ít sự hi sinh thầm lặng. Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét cao quý đáng khâm phục. Trong đó, anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu – nhân vật chính của tác phẩm - đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.

ppt 21 trang Thái Hoàn 03/07/2023 1040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tiết 118: Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
TIẾT 118: 
NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN 
(HOẶC ĐOẠN TRÍCH) 
Nghị luận về tác phẩ m truyện hoặc đoạn trích ta có thể đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau như: nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật . Sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập trung vào nghị luận về nhân vật văn học . 
I . Tìm hiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). 
1. V í dụ : VB (SGK- Trang 61 - 62) 
 Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, lòng ta cứ xao xuyến, vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân tình, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Viết về một mảng hiện thực trên miền đất Sa Pa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, thiên truyện như muốn nói với ta rằng: Bên trong vẻ lặng lẽ của núi rừng, cuộc sống ở đây chứa bao vẻ đẹp đáng yêu, đang có không ít sự hi sinh thầm lặng. Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét cao quý đáng khâm phục. Trong đó, anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu – nhân vật chính của tác phẩm - đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ. 
 Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Trong lời giới thiệu với ông hoạ sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo. Công việc hàng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông hoạ sĩ: “[..] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ: “[ ] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà!”. Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn. 
 Sống trong hoàn cảnh như thế, sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong lòng anh, toát lên trên nét mặt, qua từng cử chỉ. Anh biếu bác lái xe củ tam thất để mang về cho vợ bác mới ốm dậy. Anh mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ. Anh hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà” mình và hồn nhiên kể về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Chúng ta khó có thể quên việc làm đầu tiên của anh thanh niên khi có khách lên thăm nơi ở của mình: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết. “Anh con trai, rất tự nhiên, như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”. Củ tam thất gửi vợ bác lái xe, làn trứng, bó hoa tiễn người hoạ sĩ già, cô gái trẻ tiếp tục cuộc hành trình, đó là những kỉ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quý. 
 Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng cho đất nước như thế nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn. Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ bé so với bao người khác. Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sĩ già phác thảo chân dung của mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho hoạ sĩ những người đáng để vẽ hơn mình. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn, vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân toàn miền Bắc, là anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm nay chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập một bản đồ sét. Dù còn trẻ tuổi, anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa mà mình được sinh ra, lớn lên, thấm thía sự hi sinh lặng thầm của những con người ngày đêm làm việc, lo nghĩ cho đất nước. 
 Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực, tinh tế, bằng ngôn ngữ đối thoại sinh động, Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Chưa đầy ba mươi phút tiếp xúc với anh thanh niên khiến người hoạ sĩ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được, khiến cô kĩ sư trẻ lòng bao cảm mến, bâng khuâng. Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định: Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hi sinh lớn lao và thầm lặng? Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên ấy thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu. 
( Quỳnh Tâm ) 
Vấn đề nghị luận của văn bản : Vẻ đẹp của anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa-Pa” của Nguyễn Thành Long. 
BỐ CỤC 
Phần I : Đoạn 1 ( M ở bài) Khái quát về tác phẩm “Lặng Lẽ Sa Pa” và nhân vật a nh thanh niên 
Phần 2: Đoạn 2,3,4 ( T hân bài): Vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật a nh thanh niên 
Phần 3: Đoạn 5 ( K ết bài): Khái quát những suy nghĩ, cảm xúc của người viết về nhân vật a nh thanh niên 
ĐOẠN VĂN 1 
 Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, lòng ta cứ xao xuyến, vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân tình, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Viết về một mảng hiện thực trên miền đất Sa Pa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, thiên truyện như muốn nói với ta rằng: Bên trong vẻ lặng lẽ của núi rừng, cuộc sống ở đây chứa bao vẻ đẹp đáng yêu, đang có không ít sự hi sinh thầm lặng. Dù được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng hiện lên với nét cao quý đáng khâm phục. Trong đó, anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu – nhân vật chính của tác phẩm - đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ . 
ĐOẠN VĂN 2 
Câu văn nêu luận điểm 
 Trước tiên, nhân vật anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình . Trong lời giới thiệu với ông hoạ sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. Đã mấy năm nay, anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo. Công việc hàng ngày của anh là đo gió, đo nhiệt độ, đo mưa, đo nắng rồi ghi chép, rồi gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều mùa, nhiều đêm anh phải đối chọi với gió tuyết và lặng im. Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. Chúng ta hãy nghe lời nói của anh thanh niên với ông hoạ sĩ: “[..] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Còn đây là tâm sự của anh với cô kĩ sư trẻ: “[ ] lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà!”. Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, vẫn biết sắp xếp, lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện cho nguôi nỗi nhớ nhà, vợi bớt cô đơn. 
ĐOẠN VĂN 3 
Câu văn nêu luận điểm 
 Sống trong hoàn cảnh như thế, sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo . Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong lòng anh, toát lên trên nét mặt, qua từng cử chỉ. Anh biếu bác lái xe củ tam thất để mang về cho vợ bác mới ốm dậy. Anh mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ. Anh hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà” mình và hồn nhiên kể về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ. Chúng ta khó có thể quên việc làm đầu tiên của anh thanh niên khi có khách lên thăm nơi ở của mình: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết. “Anh con trai, rất tự nhiên, như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”. Củ tam thất gửi vợ bác lái xe, làn trứng, bó hoa tiễn người hoạ sĩ già, cô gái trẻ tiếp tục cuộc hành trình, đó là những kỉ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quý. 
ĐOẠN VĂN 4 
Câu văn nêu luận điểm 
 Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng cho đất nước như thế nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn . Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ bé so với bao người khác. Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sĩ già phác thảo chân dung của mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho hoạ sĩ những người đáng để vẽ hơn mình. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn, vất vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân toàn miền Bắc, là anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm nay chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập một bản đồ sét. Dù còn trẻ tuổi, anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa mà mình được sinh ra, lớn lên, thấm thía sự hi sinh lặng thầm của những con người ngày đêm làm việc, lo nghĩ cho đất nước. 
ĐOẠN VĂN 5 
Câu văn cô đúc vấn đề nghị luận 
 Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực, tinh tế, bằng ngôn ngữ đối thoại sinh động, Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Chưa đầy ba mươi phút tiếp xúc với anh thanh niên khiến người hoạ sĩ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được, khiến cô kĩ sư trẻ lòng bao cảm mến, bâng khuâng. Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định: Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hi sinh lớn lao và thầm lặng? Những con người cần mẫn, nhiệt thành như anh thanh niên ấy thật đáng trân trọng, thật đáng tin yêu . 
 HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM 
LĐ1: Anh thanh niên là người có tấm lòng yêu đời, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc 
LĐ2: Anh thanh niên là người hiếu khách, quan tâm đến người khác: 
LĐ3: Anh thanh niên là người rất khiêm tốn . 
ĐOẠN 
VĂN 2 
Luận điểm 
Anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. 
- Nhân vật anh thanh niên có cuộc sống cô độc, một mình anh trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo 
- Công việc rất khó khăn, vất vả, phải đối mặt với gió tuyết, lặng im 
- Tuy công việc vất vả như vậy nhưng anh rất yêu công việc và anh có những suy nghĩ rất chín chắn, phát ngôn rất chính xác, thâm thúy về công việc . 
- Anh thanh niên biết sắp xếp cuộc sống: đọc sách, nuôi gà trồng hoa 
Luận cứ 
Cách triển khai 
Diễn dịch 
Phép lập luận 
P hân tích v à chứng minh 
ĐOẠN VĂN 3 
Luận điểm 
Anh thanh niên là người hiếu khách, quan tâm đến người khác 
- Anh thanh niên rất là mến khách kể cả b ác lái xe hay những người đi trên xe của b ác, mến ngay từ phút gặp gỡ ban đầu như ông họa sĩ, cô kĩ sư. Anh vui vẻ , hồ h ở i khi được đón khách đến nhà chơi 
- Anh rất chu đáo, quan tâm đến mọi người : tặng vợ bác lái xe của tam thất khi biết lúc bác ấy ốm, t ặng bó hoa cho cô kĩ sư trong lần gặp mặt đầu tiên, tặng giỏ trứng cho ông họa sĩ và cô kĩ sư khi tạm biệt nhau để tiếp tục cuộc hành trình 
Luận cứ 
Cách triển khai 
Diễn dịch 
Phép lập luận 
P hân tích v à chứng minh 
ĐOẠN VĂN 4 
Luận điểm 
Anh thanh niên rất khiêm tốn 
+ Dù có nhiều đóng góp cho đất nước, cho quê hương nhưng anh cảm thấy những đóng góp của mình là nhỏ bé. 
+ Anh ngượng ngùng từ chối khi biết ông họa sĩ muốn vẻ chân dung anh và nói anh không có gì đáng vẽ cả, anh còn giới thiệu những người đồng đội rất xứng đáng để được vẽ hơn mình . 
Luận cứ 
Cách triển khai 
Diễn dịch 
Phép lập luận 
P hân tích v à chứng minh 
Hệ thống luận điểm, luận cứ 
1. Anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình: 
	 - Nv anh thanh niên có cuộc sống cô độc, một mình anh trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo 
	 - Công việc rất khó khăn, vất vả , phải đối mặt với gió tuyết, lặng im 
	 - Tuy công việc vất vả như vậy nhưng anh rất yêu công việc và anh có những suy nghĩ rất chín chắn, phát ngôn rất chính xác, thâm thúy về công việc như: 
	 - Anh thanh niên biết sắp xếp cuộc sống: đọc sách, nuôi gà trồng hoa 
2. Anh thanh niên là người hiếu khách, quan tâm đến người khác: 
	- Anh TN rất là mến khách kể cả b ác lái xe hay những người đi trên xe của b ác, mến ngay từ phút gặp gỡ ban đầu như ông họa sĩ, cô kĩ sư. Anh vui vẻ , hồ h ởi khi được đón khách đến nhà chơi 
	 - Anh rất là chu đáo, quan tâm đến mọi người : tặng vợ bác lái xe của tam thất khi biết lúc bác ấy ốm, t ặng bó hoa cho cô kĩ sư trong lần gặp mặt đầu tiên, tặng giỏ trứng cho ông họa sĩ và cô kĩ sư khi tạm biệt anh để tiếp tục cuộc hành trình 
3. Anh thanh niên rất khiêm tốn : 
	- Dù có nhiều đóng góp cho đất nước, cho quê hương nhưng anh cảm thấy những đóng góp của mình là nhỏ bé. 
	- Anh ngượng ngùng từ chối khi biết ông họa sĩ muốn vẻ chân dung anh và nói anh không có gì đáng vẽ cả, anh còn giới thiệu những người đồng đội rất xứng đáng để được vẽ hơn mình 
Ghi nhớ 
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiên, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể 
Những nhận xét, đánh gái về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện và tính cách, số phận nhân vật, và nghệ thuật trong tác phẩm được ngưới viết phát hiện và khái quát 
Các nhận xét đánh gái của truyện phải được xuất phát từ những ý nghĩa của cốt truyện (hoặc đoạn trích) trong bài nghị luận phải rõ ràng, đúng đắn có sự luận cứ và lập luận thuyết phục 
Bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chính xác, gợi cảm 
II- LUYỆN TẬP 
	 Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: Vấn đề nghị luận của đoạn văn là gì? Đoạn văn nêu ra ý kiến chính nào? Các ý kiến ấy giúp ta hiểu thêm gì về nhân vật Lão Hạc? 
	 Từ việc miêu tả hoạt động của các nhân vật, Nam Cao đã gián tiếp đưa ra một tình thế lựa chọn đối với lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết: sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để mà ăn hay không (bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn? Nhưng nếu chết thì phải chết như thế nào, chuẩn bị cho nó ra sao? Cuối cùng, lão Hạc lựa chọn cái chết. Đầu tiên lão để cho cậu vàng chết trước. Sau đó mới đến mình. Lão âm thầm chuẩn bị, dọn dẹp chu tất một con đường sạch sẽ để bước đến nhà mồ (nhờ ông giáo giữ vườn để khỏi ai tranh chiếm, nhòm ngó, gửi cầm 30 đồng bạc để cậy bà con lo liệu ma chay nếu mình có mệnh hệ gì). Lão đã chọn cái chết trong còn hơn phải sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con mình, mới có thể chấm dứt kiếp sống lay lắt, héo úa. Cái chết của lão Hạc khiến ta đau đớn nhận ra một tình phụ tử thiêng liêng và thăm thẳm. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử phải giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dứt khoát, quyết liệt. Để bảo toàn nhân cách của mình, lão không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Lão Hạc đã dùng cái chết của mình để cấy cái sống cho đứa con trai đang đi phu đồn điền biền biệt. Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn cuả thân phận con người. ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này. 
(Theo Văn Giá, Chiều sâu truyện “Lão Hạc”) 
Bài làm: 
Vấn đề nghị luận của đoạn văn về sự lựa chọn nghiệt ngã của nhân vật lão Hạc qua đó thấy được vẻ đẹp nhân cách của nhân vật này trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. 
- Các luận điểm chính của đoạn văn: 
 + Lão Hạc lựa chọn sống và chết 
 + Lão Hạc chọn cái chết chứ không sống khổ nhục 
 + Cái chết của lão Hạc gieo lên sự sống 
- Nhân vật lão Hạc trong đoạn văn 
 + Giàu tình thương, long vị tha 
 + Con người khốn khổ bị dồn tới đường cùng vẫn kiên cường chọn cái chết. 
- Nắm vững nội dung bài học 
- Hoàn thiện bài tập vào vở 
- Soạn bài: Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) 
HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ 

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_ngu_van_lop_9_tiet_118_nghi_luan_ve_tac_pham_truye.ppt