Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tóm tắt tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Một cung gió thảm mưa sầu;
Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay;
Ve ngâm vượn hót nào tầy;
Lọt tai hồ cũng nhăn mày rơi châu".
Và rồi "nghe càng đắm, ngắm càng say;
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình".
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tóm tắt tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều - Nguyễn Du)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Thể loại: Thơ lục bát.- Viết bằng chữ Nôm.- Thơ gồm: 3254 câu.- Thời gian: từ 1804 đến 1809.- Dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung hoa)Nội dung tác phẩmI. Gặp gỡ và đính ướcHai chị em Kiều có nhan sắc "mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”Chàng Vương quen mặt ra chào,Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoaNguyên người quanh quất đâu xaHọ Kim tên Trọng, vốn nhà trâm anh.“Thoa này bắt được hư không “Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?”Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:Ơn long quân tử sá gì của rơi.Vừng trăng vằng vặc giữa trời,Đinh ninh hai miệng một lời song songTóc tơ căn vặn tấc lòng,Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.II. Gia biến và lưu lạc.Ông tơ ghét bỏ chi nhau, Chưa vui sum họp đã sầu chia phôiCùng nhau trót đã nặng lời,Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!Đồ tế nhuyễn của riêng tây Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.Kiều rơi vào tay Tú BàTrước lầu Ngưng Bích khoá xuânVẻ non xa tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia Khách du bỗng có một người,Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.Vốn người huyện Tích châu Thường,Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm tri .Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào .Hoạn Thư, vợ cả Thúc Sinh lập mưu bắt cóc Thúy Kiều đưa về Vô Tích để đánh ghen.Kiều thưa cùng sưTiểu thiền quê ở Bắc KinhQui sư qui Phật tu hành bấy nay Bản sư rồi cũng đến sau Dạy đem pháp bảo sang hầu sư huynh.Kiều gặp Từ Hải. "Lần thâu gió mát trăng thanh; bỗng đâu có khách biên đình sang chơi; râu hùm hàm én mày ngài; vai năm tấc rộng thân mười thước cao; đội trời đạp đất ở đời; họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông; giang hồ quen thói vẫy vùng; gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo; qua chơi nghe tiếng nàng Kiều; tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng; thiếp danh đưa đến lầu hồng; đôi bên cùng liếc, đôi lòng cùng ưa". Kiều báo ân báo oánHoạn Thư hồn lạc phách xiêuKhấu đầu dưới trướng liệu điều kêu caRằng tôi chút dạ đàn bàGhen tuông là thói người ta thường tìnhChết đứng như Từ HảiMột cung gió thảm mưa sầu; Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay; Ve ngâm vượn hót nào tầy; Lọt tai hồ cũng nhăn mày rơi châu". Và rồi "nghe càng đắm, ngắm càng say; Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình".III. Đoàn tụTrọng đi tìm Kiều. “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.- Truyện Kiều là tất cả nỗi lòng Nguyễn Du. Qua đó, chủ yếu là tiếng kêu đứt ruột “đoạn trường tân thanh” của con người thời đại ấy. Một tiếng kêu thương trực tiếp cho cuộc đời, thân phận ba chìm bảy nổi của Kiều, đồng thời là nỗi đau cho một phận người trong xã hội: “Đau đớn thay phận đàn bà”. - Tiếng kêu ấy là niềm thương cảm lớn cho một thân phận cụ thể tài hoa bạc mệnh. Truyện Kiều thời xưa, cũng là nỗi đau của Nguyễn Du một thời.Nguyễn Du, vết thương lòng ta phí máu
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_ngu_van_lop_9_tom_tat_tac_pham_doan_truong_tan_tha.pptx