Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản: Bài thơ tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
Tác Phẩm
Bài thơ sáng tác năm 1969, in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”. Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc bước vào thời kì quyết liệt. Tuyến đường Trường Sơn là tuyến đường huyết mạch để cho những chiếc xe vận tải tiến vào miền Nam.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Văn bản: Bài thơ tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGỮ VĂN 9 BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH Phạm Tiến Duật I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN 1 Tác Giả Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. a Cuộc đời Ông là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN 1 Tác Giả Thơ ông thường viết về thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ với giọng điệu trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, sâu sắc. b Phong cách sáng tác 1970 1994 Vầng Trăng Quầng Lửa 1981 Ở hai đầu núi Thơ một chặng đường NHỮNG CÁC PHẨM CHÍNH I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN 2 Tác Phẩm Bài thơ sáng tác năm 1969, in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”. Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc bước vào thời kì quyết liệt. Tuyến đường Trường Sơn là tuyến đường huyết mạch để cho những chiếc xe vận tải tiến vào miền Nam. Đường Trường Sơn – Hồ Chí Minh xưa, nay là một kết hợp tuyệt vời lịch sử chói lọi của cuộc đấu tranh giữ nước, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, kéo những bản làng xa xôi gần lại với đồng bằng và phục vụ thiết thực công cuộc phát triển kinh tế, ổn định đời sống vùng sâu, vùng xa. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng Trị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã anh dũng hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN 3. Đọc – Thể loại – Bố cục a ĐỌC Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi. Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH Phạm Tiến Duật Tôi phải thêm “ Bài thơ về ”, để báo trước cho mọi người biết rằng là tôi viết thơ, chứ không phải một khúc văn xuôi. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là cách đưa chất liệu văn xuôi vào thơ, những câu thơ “đặc” văn xuôi được kết hợp lại trong một cảm hứng chung. (Phạm Tiến Duật) I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN 3. Đọc – Thể loại – Bố cục a ĐỌC b THỂ LOẠI THƠ TỰ DO c PTBĐ BIỂU CẢM I. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN 3. Đọc – Thể loại – Bố cục d BỐ CỤC Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam * Nhan đề bài thơ “Xe không kính’’ Khác lạ, độc đáo Là hình ảnh xuyên suốt toàn bà i Sự gắn bó, am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh. “ Bài thơ” : Chất thơ toát lên từ hiện thực khốc liệt ấy. Bài thơ không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính, mà còn nói về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, đó là chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam II. TÌM HIỂU NỘI DUNG 1. Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính Không có kính không phải vì xe không có kínhBom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Xe : Không kính Bom giật Bom rung => Bằng giọng điệu thản nhiên, nhịp thơ tăng tiến, đã phản ảnh hiện thực khốc liệt của chiến trường thời chống Mỹ Đường Trường Sơn - Hồ Chí Minh thực sự ghi vào lịch sử dân tộc ta như một con đường huyền thoại, một kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một “kỳ tích của thế kỷ XX Từ năm 1965 đến năm 1972, Mỹ huy động hơn 730.000 lượt máy bay, đánh phá hơn 150.000 trận, ném xuống đường Trường Sơn gần 4 triệu tấn bom đạn ( gấp 20 lần quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima năm 1945 ) Hình ảnh những chiếc xe vận chuyển đường Trường Sơn II. TÌM HIỂU NỘI DUNG a Tư Thế Ung dung buồng lái ta ngồi,Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng . Tư thế ung dung nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng: tầm nhìn mở rộng-> Cảm giác sảng khoái, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ lái xe tiếp tục nhiệm vụ chi viện trên tuyến đường Trường Sơn -> Tư thế chủ động, tinh thần lạc quan coi thường mọi khó khăn, gian khổ của các chiến sĩ lái xe 1. Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính b Cảm giác người lính Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. b Cảm giác người lính Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Điệp ngữ “nhìn; thấy” diễn tả một cách chính xác tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra chiến trường -> Người lính vẫn không sợ hãi mà hiêng ngang đối mặt mọi khó khăn b Cảm giác người lính Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Nhân hóa “ gió vào xoa ” , “ con đường chạy ”, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “ mắt đắng” -> Tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận -> Con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam. ⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái . -> Cu ộc chiến đấu hiểm nguy nhưng tâm hồn người chiến sĩ vẫn luôn lãng mạn mới có thể quan sát để thấy “sao trời, cánh chim”... -> Tâm hồn hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới cảm nhận “... như sa, như ùa vào buồng lái”. => Động từ “thấy” nhấn mạnh sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ “đột ngột” của cánh chim đêm Câu hỏi: Qua hai khổ thơ đầu, em có cảm nhận gì về hình ảnh những người lính lái xe, viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu, trình bày ý kiến em “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai” Không có kính, ừ thì có bụi,Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi. 2. Tinh thần dũng cảm ,lạc quan vượt qua gian khổ của người lính Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha . Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi. -Bụi phun, mưa tuôn -> thời tiết khắc nghiệt “ừ thì”-> điệp từ coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ Thái độ bất chấp khó khăn , gian khổ, nguy hiểm ->hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể. 2. Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính Không có kính, ừ thì có bụi,Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha . Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi. 2. Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính Những câu thơ đã lột tả hết nét riêng, độc đáo của người lính S ức mạnh của tuổi trẻ trong những tháng ngày chiến đấu thật đáng ngưỡng mộ. 3. Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe Những chiếc xe từ trong bom rơi Ðã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Những chiếc xe từ trong bom rơi Ðã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết: + Tiểu đội xe là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau. + Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng. => Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Điệp từ “lại đi” khẳng định đoàn xe sẽ không ngừng tiến tới đi tiếp con đường gian khổ phía trước. Bếp Hoàng Cầm là một loại bếp dã chiến, có công dụng làm tan loãng khói bếp tỏa ra khi nấu ăn nhằm tránh bị máy bay phát hiện từ trên cao, cũng như ở gần. Bếp mang tên người chế tạo ra nó . Sau này trong Kháng chiến chống Mỹ , do sự hoạt động ráo riết của Không quân Mỹ bếp Hoàng Cầm được áp dụng đại trà và bắt buộc trong các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khi hành quân tác chiến trên các chiến trường. 4. Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam Không có kính, rồi xe không có đèn,Không có mui xe, thùng xe có xước,Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Không có kính, rồi xe không có đèn,Không có mui xe, thùng xe có xước, Những cái không: không kính, không đèn, không mui > những gian khổ không thể ngăn được ý chí quyết tâm chiến đấu của người lính ->Liệt kê kết , điệp ngữ “không” -> hình ảnh chiếc xe mỗi lúc một biến dạng nhiều hơn, khó khăn gian khổ chất chồng. Hiện thực chiến tranh khốc liệt Không có kính, rồi xe không có đèn , Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim. “Vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được tinh thần chiến đấu của người lính Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do. III. TỔNG KẾT 1. Nội Dung Bài thơ của Phạm Tiến Duật khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. 2. Nghệ Thuật Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn. * GHI NHỚ : SGK
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_ngu_van_lop_9_van_ban_bai_tho_tieu_doi_xe_khong_ki.pptx