Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tiết 103: Phép phân tích và tổng hợp - Võ Thị Lệ Hằng

Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tiết 103: Phép phân tích và tổng hợp - Võ Thị Lệ Hằng

Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang.

Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay !

 

ppt 28 trang Thái Hoàn 01/07/2023 2160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Tiết 103: Phép phân tích và tổng hợp - Võ Thị Lệ Hằng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG THCS HOÀNG VĂN THỤ 
Bài giảng điện tử 
Môn Ngữ Văn 9 
Giáo viên: Võ Thị Lệ Hằng 
Tiết 103: PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
VĂN BẢN TRANG PHỤC 
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu, phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người. 
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. 
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay! 
Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp. 
( Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường ) 
VĂN BẢN TRANG PHỤC 
Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu, phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người. 
Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. 
Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay! 
Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp. 
( Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường ) 
MỞ BÀI ( Đoạn 1 ) 
THÂN BÀI ( Đoạn 2,3 ) 
KẾT BÀI ( Đoạn 4 ) 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
Văn bản bàn về vấn đề gì? 
Thông qua một loạt dẫn chứng ở đoạn mở bài, tác giả đã rút ra nhận xét về vấn đề gì? 
 Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu,...phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc áo quần chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt trước mặt mọi người. 
 Đoạn văn 1: Mở bài 
Tác giả rút ra nhận xét về vấn đề ăn mặc chỉnh tề, cụ thể là sự đồng bộ, hài hòa giữa quần áo, giày, tất trong trang phục của con người. 
2. Nhận xét: 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
Hai luận điểm chính trong văn bản là gì? 
2. Nhận xét: 
- Thứ nhất là trang phục phải phù hợp với hoàn cảnh, tức là tuân thủ những “qui tắc ngầm” mang tính văn hoá, xh. 
- Thứ hai là trang phục phải phù hợp với đạo đức tức là giản dị và hài hoà với môi trường sống xung quanh. 
VĂN BẢN TRANG PHỤC 
 * Đoạn văn 2,3: Thân bài 
Người ta nói: “ Ăn cho mình, mặc cho người ”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. 
Người xưa đã dạy: “ Y phục xứng kì đức ”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay ! 
Đoạn văn 2 
Người ta nói: “ Ăn cho mình, mặc cho người ”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. 
Mu ốn l àm s áng tỏ luận điểm chính ở đoạn 2 , tác giả đưa ra lí lẽ, dẫn chứng gì và lập luận ra sao? 
HO ẠT ĐỘNG NHÓM 
 - Luận điểm” ăn cho mình, mặc cho người” được dẫn chứng như thế nào? 
- Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. 
- Anh thanh niên đi tát nước hay đi câu cá ngoài đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi phẳng tắp. 
- Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. 
- Đi dự đám tang không được mặc áo loè loẹt, cười nói oang oang. 
THẢO LUẬN NHÓM NHÓM : Đoạn văn 2 
Lu ận điểm : 
Ă n cho 
m ình , 
 m ặc cho 
ng ười 
Dẫn chứng: 
- Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay . 
Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp. 
Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. 
- Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. 
L í l ẽ 
-Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội . 
Ph ép l ập lu ận ch ứng minh + t ừ phủ định, giả thiết. 
HO ẠT ĐỘNG NHÓM 
Đoạn văn 3 
Người xưa đã dạy: “ Y phục xứng kì đức ”. Ăn mặc ra sao cũng 
phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung 
nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu,sang đến 
đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, 
làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi 
Với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn 
hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng 
như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con 
người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu 
có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có 
bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. 
Chí lí thay ! 
Mu ốn l àm s áng tỏ luận điểm chính của đoạn 3 , tác giả đã đưa ra lí lẽ , dẫn chứng gì và lập luận ra sao? 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
Để xác lập hai luận điểm trên, tác giả đã dùng phép lập luận nào? 
2. Nhận xét: 
- Thứ nhất là trang phục phải phù hợp với hoàn cảnh, tức là tuân thủ những “qui tắc ngầm” mang tính văn hoá, xh. 
- Thứ hai là trang phục phải phù hợp với đạo đức tức là giản dị và hài hoà với môi trường sống xung quanh. 
⇒ Tác giả dùng phép lập luận phân tích 
Vậy hiểu hiểu thế nào là phép lập luận phân tích? 
Phép lập luận phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, từng phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
Sau khi đã nêu một số biểu hiện của “những quy tắc ngầm” về trang phục, bài viết đã dùng phép lập luận gì để chốt lại vấn đề? 
2. Nhận xét: 
⇒ Tác giả dùng phép lập luận tổng hợp. 
Phép lập luận này thường đặt ở vị trí nào trong văn bản? 
Tác giả dùng phép lập luận tổng hợp bằng một kết luận ở cuối văn bản: "Thế mới biết .là trang phục đẹp" 
Em hiểu thế nào là hép lập luận tổng hợp? 
Phép lập luận tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích (đem các bộ phận, các đặc điểm của một sự vật đã được phân tích riêng mà liên hệ lại với nhau để nêu ra nhận định chung về sự vật đó). 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
Nêu vai trò của phép phân tích, tổng hợp? 
2. Nhận xét: 
Vai trò : + Giúp ta hiểu sâu sắc các khía cạnh khác nhau của trang phục đối với từng người từng hoàn cảnh cụ thể. 
 + Hiểu ý nghĩa văn hóa và đạo đức của cách ăn mặc, nghĩa là không ăn mặc tùy tiện,cẩu thả như một số người tầm thường tưởng đó là sở thích và quyền "bất khả xâm phạm" 
Theo em để làm rõ về một sự việc hiện tượng nào đó người ta làm như thế nào ? 
Mối quan hệ giữa hai phép lập luận này? 
Mối quan hệ qua lại giữa hai phép lập luận: tuy đối lập nhưng không tách rời nhau. Phân tích rồi phải tổng hợp thì mới có ý nghĩa, mặt khác, phải dựa trên cơ sở phân tích thì mới có thể tổng hợp được 
TIẾT 103- TLV-PHÉP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP 
I. PHÉP LẬP LUẬN PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP: 
1. Đọc văn bản/ sgk/ 09: 
2. Nhận xét: 
3. Kết luận: ghi nhớ sgk/10 
II. LUYỆN TẬP : 
 BÀI TẬP 1 
 Chu Quang Tiềm đã phân tích như thế nào để làm sáng tỏ luận điểm: “ Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn”? 
Đoạn văn: “ Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn. Bởi vì học vấn không chỉ là việc cá nhân, mà là việc của toàn nhân loại. Mỗi loại học vấn đến giai đoạn hôm nay đều là thành quả của toàn nhân loại nhờ biết phân công, cố gắng tích luỹ ngày đêm mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách vở ghi chép, lưu truyền lại. Sách là kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại, cũng có thể nói đó là những cột mốc trên con đường tiến hoá học thuật của nhân loại. Nếu chúng ta mong tiến lên từ văn hoá, học thuật của giai đoạn này, thì nhất định phải lấy thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát. Nếu xoá bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ, thì chưa biết chừng chúng ta đã lùi điểm xuất phát về đến mấy trăm năm, thậm chí là mấy nghìn năm trước. Lúc đó, dù có tiến lên cũng chỉ là đi giật lùi, làm kẻ lạc hậu .” 
* Các luận cứ: 
 Học vấn là của nhân loại. 
 Học vấn của nhân loại là do sách lưu truyền lại. 
 Sách là kho tàng quý báu tích luỹ mọi thành tựu mà loài người đã tìm được qua từng thời đại. 
 Nếu chúng ta mong muốn tiến lên từ văn hoá thì phải lấy thành quả đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát. 
 Nếu chúng ta xoá bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ thì chúng ta đã lùi điểm xuất phát đến mấy nghìn năm. 
* Luận điểm: 
 Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn. 
Tác giả nêu ra luận điểm cơ bản làm tiền đề cho lập luận 
dùng giả thiết để phân tích làm sáng rõ cho luận điểm. 
II. Luyện tập 
BT 1/10 : Cách phân tích của Chu Quang Tiềm trong văn bản “ Bàn về đọc sách” 
Đọc sách là con đường quan trọng của học vấn 
Học vấn là việc của toàn nhân loại. 
Học vấn của nhân loại do sách vở ghi chép, lưu truyền. 
Sách là kho tàng quý báu của di sản tinh thần nhân loại. 
Nếu xoá bỏ thành quả nhân loại...lùi về điểm xuất phát. 
Phân tích mối quan hệ chặt chẽ giữa học vấn – nhân loại – sách 
Vận dụng biện pháp: Nêu giả thiết (“nếu ...thì...”) 
Bài tập 1: 
- Học vấn không phải là của cá nhân mà là của nhân loại Thành quả của nhân loại Sách lưu truyền lại Sách là kho tàng quí báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại Tiến lên từ văn hoá, học thuật phải lấy thành quả nhân loại làm điểm xuất phát Xoá bỏ sẽ trở thành kẻ đi giật lùi, lạc hậu. 
Lí do phải chọn sách để đọc 
 Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu , đọc sách theo kiểu liếc qua , tuy rất nhiều nhưng đọng lại thì rất ít. Từ đó nảy sinh thói hư danh, nông cạn. 
 Sách nhiều dễ khiến người đọc lạc hướng. Đọc tham nhiều mà không vụ thực chất thì sẽ lãng phí thời gian và sức lực bởi những cuốn sách vô bổ, bỏ lỡ những cuốn sách quan trọng, cơ bản. 
Bài tập 2: 
B ÀI T ẬP V ẬN D ỤNG 
Từ những lí do phải chọn sách trên, em hãy viết phần tổng hợp cho vấn đề đã nêu? 
BT 2: Tác giả phân tích lí do chọn sách để đọc: 
Sách nhiều: người đọc dễ sa vào lối “ăn tươi nuốt sống”, không chuyên sâu. 
Sách nhiều: người đọc khó chọn lựa, dễ lạc hướng gây lãng phí thời gian sức lực với những cuốn sách thiếu lựa chọn . 
Tổng hợp : 
 Không cần đọc nhiều, chỉ cần chọn sách cho tinh và đọc cho kĩ. 
Kết hợp đọc rộng và đọc sâu ( sách thường thức + sách chuyên môn). 
II. Luyện tập: 
 Bài tập 3 : Phân tích tầm quan trọng của cách đọc sách. 
Không đọc thì không có điểm xuất phát cao. 
Đọc sách là con đường ngắn nhất để tiếp cận tri thức. 
Đọc ít mà kĩ, quan trọng hơn nhiều mà qua loa, không ích lợi gì. 
Đọc không chọn lọc thì không có hiệu quả. 
* Bài tập 2 
+ Nêu cách chọn sách đọc. 
 - Do sách nhiều, - Do sức người có hạn 
 - Sách có loại chuyên môn có loại thường thức, chúng liên quan nhau. 
* Bài tập 3 
+ Phân tích tầm quan trọng của việc đọc sách. 
Đọc ít mà kĩ còn hơn đọc nhiều mà qua loa 
- Không đọc thì không có điểm xuất phát. 
- Đọc sách là con đường ngắn nhất để tiếp cận tri thức. 
- Đọc không chọn lọc thì không có hiệu quả. 
Bài tập 4 
Vai trò của phân tích trong lập luận. 
Vai trò của phân tích trong lập luận. 
- Rất cần thiết trong lập luận, vì có qua sự phân tích (lợi - hại; đúng – sai), thì các kết luận rút ra mới có sức thuyết phục 
 BÀI THƠ 
 VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH 
 -Phạm Tiến Duật- 
 Tiết 46 
Văn bản: 
I. Tìm hiểu chung 
II. Đọc hiểu văn bản 
1. Đọc - Tìm hiểu chú thích 
2. Nhan đề bài thơ 
3. Phân tích 
3.1. Hình ảnh những chiếc xe không kính 
 Hiện thực khốc liệt thời chiến tranh: bom đạn kẻ thù, những con đường ra trận để lại dấu tích trên những chiếc xe không kính. 
HƯỚNG DẪN VỀ NHÀ 
1- Bài vừa học: 
2- Bài sắp học : LUYỆN TẬP PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP/ sgk/ 11 -> 12 
 - Nắm nội dung bài vừa học. 
- Biết thực hiện phép phân tích và tổng hợp trong những văn cảnh cụ thể. 

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_ngu_van_lop_9_tiet_103_phep_phan_tich_va_tong_hop.ppt